I . Tình hình chung
Thị trường tiếp nhận thuyền viên tàu cá chưa được mở rộng,
chủ yếu vẫn là Đài Loan, Hàn Quốc, ngoải ra Nhật Bản và Hawaii tiếp nhận với số
lượng nhỏ. Sản lượng đánh bắt cá của tàu Đài Loan năm qua rất kém, chi phí sản
xuất cao, nên rất nhiều tàu có trọng tải lớn về cảng nghỉ, nhiều công ty tàu
phá sản, nên đơn hàng tuyển thuyền viên cũng ngày càng ít đi. Các loại tàu có
trọng tải nhỏ 200-400 tấn rất ít thuyền viên đồng ý đi.
Nguồn lao động trong nước ngày càng thu hẹp, chỉ tập
trung tại một số địa phương như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, chưa mở việc tuyển
chọn thuyền viên ở các tỉnh ven biển khác. Các đơn vị xuất khẩu lao động vẫn chủ
yếu khai thác nguồn lao động là ngư dân mà chưa có điều kiện đào tạo nguồn lao
động khác. Vì vậy, việc cạnh tranh trong tuyển nguồn tại các tỉnh trên đã dẫn đến
chất lượng thuyền viên không được đảm bảo như: không được đào tạo, khám sức khỏe
ở các bệnh viện địa phương không đảm bảo, bỏ lọt thuyền viên vi phạm hợp đồng về
nước đi lại qua các công ty khác và tiếp tục vi phạm hợp đồng, đình công, bỏ trốn.
Ngoài ra, một số
doanh nghiệp Việt Nam, Đài Loan, Hàn Quốc chưa đảm bảo quyền lợi cho người lao
động như chậm thanh lý hợp đồng, chậm trả lương… khiến cho người lao động không
còn mặn mà với thị trường đánh cá xa bờ nữa. Trên tàu vẫn còn tình trạng đối
đãi không tốt của thuyền trưởng hay chủ tàu đối với thuyền viên Việt Nam. Việc quản
lý trên tàu không tốt nên thuyền viên thường xuyên phát sinh đánh nhau, vi phạm
hợp đồng. Đặc biệt từ tháng 9 trở lại đây, số lượng thuyền viên xa bờ Đài Loan
ngày càng ít đi, do một số thị trường như đánh cá gần bờ Hàn Quốc, đánh cá xa bờ
Nhật, công xưởng ... thu hút người lao động. So với đánh cá xa bờ Đài Loan thì
đây là những công việc có mức lương hấp dẫn, điều kiện công việc, ăn ở, đối đãi
cũng tốt hơn rất nhiều.
Nhiều doanh nghiệp đạt số lượng thuyền viên xuất cảnh
ít hơn mọi năm; nhiều thuyền viên không hoàn thành hợp đồng, đặc biệt là thuyền
viên tàu cá Đài Loan. Trong khi đó nhiều rủi ro và sự cố xảy ra như thuyền viên
bị chết, mất tích, bỏ trốn, đánh nhau…
Tuy nhiên, công tác xuất khẩu thuyền viên cũng có một
số thuận lợi:
-
Thuyền viên Việt Nam làm việc tốt,
tiếp thu nhanh nên đã được các chủ tàu Đài Loan và Hàn Quốc muốn sử dụng.
-
Nhiều thuyền viên
trở về đăng ký đi lại và mức lương cao hơn nên phấn khởi tiếp tục xuất cảnh nhiều
lần, đặc biệt với thị trường thuyền viên Hàn Quốc. Có thuyền viên đã được trở
thành boong trưởng hoặc cai trưởng.
-
Ban thuyền viên
tàu các hoạt động tích cực dưới sự chỉ đạo của Hiệp hội, đạt được sự đồng thuận
tương đối giữa các thành viên nên tạo được thế mạnh trong đàm phán với đối tác
nước ngoài, thường xuyên trao đổi nghiệp vụ, kinh nghiệm xử lý các sự cố, phê
phán các hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, do vậy, ngày một nâng cao quyền
lợi của người lao động
-
Năm qua, VAMAS đã
cử đại diện của ban tàu cá để dự hội thảo về vấn đề “Bảo vệ thuyền viên tàu cá
khi làm việc ở nước ngoài ” tại Indonexia, thay mặt ban tàu cá, đại
diện phía Việt Nam đã có bài phát biểu về vấn đề này của Việt Nam, cũng như học
hỏi các kinh nghiệm bổ ích của các nước khác, các quy định, công ước của ILO về
thuyền viên tàu cá.
-
Ban tàu cá trực
thuộc VAMAS đã tổ chức các cuộc họp với Hiệp hội tàu cá nước ngoài để thống nhất
đưa ra mẫu hợp đồng cung ứng thuyền viên tàu cá chung, đặc biệt là thống nhất mức
lương, mức xử lý khi vi phạm hợp đồng.
-
Chất lượng tuyển
chọn lao động ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và sự phát triển bền vững của
doanh nghiệp, VAMAS đã tư vấn để doanh nghiệp nâng cao chất lượng tuyển chọn
lao động, trừ điểm khi doanh nghiệp vi phạm các tiêu chí tuyển chọn trong
COC-VN đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
II. Kết quả xuất khẩu thuyền viên tàu cá năm 2014:
Đến nay đã có 15 công ty tham gia Ban cung ứng thuyền
viên tàu cá Việt Nam.
Theo báo cáo chưa đầy đủ, Ban đã tổng hợp được số liệu cụ thể về lao động đưa
đi của từng công ty cung ứng thuyền viên tàu cá trong năm 2014 như sau:
STT
|
Tên công ty
|
Đ.LOAN
|
H.QUỐC
|
N.BẢN
|
HAWAII
|
-
|
VINAMOTOR
|
171
|
-
|
-
|
-
|
-
|
TTLC
|
750
|
50
|
-
|
-
|
-
|
INMASCO
|
293
|
169
|
-
|
-
|
-
|
SERVICO
HÀ NỘI
|
360
|
-
|
-
|
-
|
-
|
TRAMINCO
|
158
|
121
|
-
|
-
|
-
|
TSC
|
195
|
-
|
-
|
-
|
-
|
LOD
|
105
|
310
|
05
|
-
|
-
|
VIRASIMEX
|
115
|
|
|
|
-
|
TRƯỜNG
SƠN
|
|
|
|
|
-
|
HẢI
DƯƠNG
|
|
|
|
|
-
|
IDC
HP
|
150
|
10
|
-
|
57
|
-
|
VẠN
HOA
|
70
|
-
|
-
|
-
|
-
|
INTERSERCO
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
SOWATCO
|
-
|
350
|
-
|
-
|
-
|
THÁI
BÌNH DƯƠNG
|
135
|
-
|
-
|
-
|
TỔNG CỘNG
|
2.502
|
1.010
|
05
|
57
|
Ngoài ra còn một số công ty khác cũng tham gia xuất khẩu
thuyền viên tàu cá nhưng chưa tham gia Ban tàu cá.
Một số công ty có số lượng thuyền viên xuất cảnh nhiều
là TTLC, INMASCO, SERVICO Hà Nội, SOWATCO...Tuy nhiên, so với năm 2013 số lượng
thuyền viên nhập tàu Đài Loan bị giảm ( 2013 = 2.667 ; 2014 = 2.502), phản ảnh
khó khăn về thị trường và nguồn lao động.
Mức lươngđạt được:
a.
Với tàu cá Đài Loan:
Mặc dù hợp đồng có thể ký với đại lý trong hiệp hội
Cao Hùng hoặc ngoài Hiệp hội hoặc trực tiếp với chủ tàu nhưng đã thống nhất được
mức lương tối thiểu như sau:
-
Tàu ngừ : 400 – 450 USD/ tháng cho
thuyền viên mới và thuyền viên kinh nghiệm.
-
Tàu mực : 450 – 500 USD/ tháng cho thuyền viên
mới và kinh nghiệm.
Đã có những công ty ký được những hợp đồng với mức
lương cao hơn 100USD so với thực tế này.
b.Với tàu cá
Hàn Quốc:
-
Thuyền viên đi mới:
300-350 USD/tháng
-
Thuyền viên đi lại:
400 -500 USD/tháng
Mức
bảo hiểm rủi ro mua cho thuyền viên bắt
đầu từ tháng 01 năm 2014 tăng lên tối thiểu là 140USD/năm/thuyền viên, mức đền
bù tối thiểu cho thuyền viên tử vong là 18.000USD. Các doanh nghiệp thống nhất
được mức mua bảo hiểm.
III. Khó khăn, thách thức cụ thể trong
công tác XKLĐ thuyền viên tàu cá:
1.Về phía các công ty Việt Nam:
-Việc giải quyết các tranh chấp và sự cố phát sinh giữa
chủ tàu và thuyền viên gặp nhiều khó khăn khi tàu làm việc ngoài khơi xa, đôi
khi ở các vùng biển quốc tế hoặc các nước chưa có quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Việc cử
cán bộ của các công ty XKLĐ đến các vùng đó là không thể được. Một số vụ liên lạc
với thuyền viên để giải quyết vấn đề phát sinh trên tàu qua hệ Inmasat, tuy
nhiên không phải tàu nào cũng có thể liên lạc. Các công ty XKLĐ chủ yếu nhờ sự
can thiệp, giúp đỡ ở các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài.
-Thông thường các rủi ro phát sinh sau khi lao động về
nước mà không do lỗi của họ đều do công
ty XKLĐ chịu trách nhiệm.
-Việc tìm kiếm các đối tác nước ngoài mới chỉ thực hiện
ở các đối tác Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Còn nhiều nước khác có đội tàu đánh
cá như Nga, Ac-hen-ti-na, Surinam vv… cũng rất cần thuê lao động Việt Nam nhưng
việc tiếp cận và ký kết hợp đồng còn khó khăn.
-Các công ty XKLĐ Việt Nam đã lập “hộp đen” để cập nhật
danh sách thuyền viên công ty mình vi phạm hợp đồng, bỏ trốn… tránh cho công ty
khác tuyển lại các thuyền viên này. Mong các đơn vị liên kết tại địa phương
cũng sử dụng hộp thư này để không giới thiệu các thuyền viên vi phạm hợp đồng.
Các công ty làm về thị trường Hàn
Quốc chưa thực hiện việc này thường xuyên nên tác dụng của ‘ hộp đen’ chưa cao.
-Việc tuyển chọn và đào tạo chưa tốt dẫn đến một số
thuyền viên không đủ sức khỏe, không thích nghi với cuộc sống và công việc dài
ngày trên biển dẫn đến phải về nước trước thời hạn hợp đồng.
-Việc
giải quyết tranh chấp giữa các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam và các chủ
tàu, công ty môi giới nước ngoài còn khó khăn và có những trường hợp không thể
giải quyết được, đặc biệt khi chủ tàu phá sản hoặc không trả lương cho thuyền
viên.
-Một số
công ty XKLĐ không có kinh nghiệm nhưng vẫn tiến hành xuất khẩu thuyền viên tàu
cá. Thực tế đã cho thấy có công ty sau một vài năm tham gia công tác này đã
phải trả giá về thiệt hại kinh tế và đã chấm dứt hợp đồng đưa thuyền viên đi
làm việc trên tàu cá nước ngoài.
2. Về phía các công ty môi giới Đài Loan - Hàn
Quốc
-Không nắm bắt được năng lực và tài chính của các chủ
tàu nên đôi khi chủ tàu có khó khăn, phá sản không trả được tiền lương, bảo hiểm
cho các thuyền viên Việt Nam.
-Với
các chủ tàu phá sản, các công ty môi giới nước ngoài không cương quyết đưa ra
tòa để đòi tiền lương, bảo hiểm cho thuyền viên Việt Nam. Mọi thiệt hại đều để cho công
ty Việt Nam
chịu vì không ai giải quyết với chủ tàu cho phần tiền lương, bảo hiểm của thuyền
viên.
-Một
số công ty môi giới chuyển lương chậm cho phía Việt Nam, mặc dù đã nhận được
lương từ phía chủ tàu (chiếm dụng vốn), cá biệt có đối tác quỵt lương, hoặc chậm
lương nhiều tháng không tuân thủ hợp đồng.
3.
Về phía chủ tàu Đài Loan, Hàn Quốc
-Một số chủ có tàu quá cũ, thiết bị đánh bắt cũ và lạc
hậu, không đủ khả năng làm việc dài ngày trên biển nên đôi khi xảy ra sự cố như
hỏa hoạn, chìm tàu dẫn đến có trường hợp thuyền viên bị tử vong hoặc thương tật.
- Có
thuyền trưởng, sỹ quan trên tàu đối xử không công bằng với các thuyền viên có
các quốc tịch khác nhau trên tàu, thậm chí có trường hợp đánh đập thuyền viên
Việt Nam dẫn đến việc các thuyền viên Việt Nam đấu tranh lại và đòi về nước trước
thời hạn hợp đồng.
- Chủ
tàu phá sản, không trả lương cho các thuyền viên dẫn đến rủi ro cho các công ty
XKLĐ Việt Nam.
- Cho tàu đánh bắt hải sản tại các vùng biển quốc tế
không được phép hoạt động, đánh bắt hải sản tại một số vùng biển của một số quốc
gia dẫn đến bị bắt tàu, bị phạt hoặc xảy ra tranh chấp giữa chủ tàu và chính
quyền các nước đó. Có trường hợp bị bắt, chủ tàu đã bỏ tàu và để mặc thuyền
viên Việt Nam
ở nước ngoài và tự lo về nước.
-Một số chủ tàu không thực hiện các điều khoản hợp đồng
đã ký giữa chủ tàu và thuyền viên, thường hay kết thúc hợp đồng và cho thuyền
viên Việt Nam về nước trước thời hạn hợp đồng, gây thiệt hại cho các công ty xuất
khẩu lao động Việt Nam và cho thuyền viên.
-Một số chủ tàu và thuyền trưởng ứng trả trước cho
thuyền viên trên tàu. Đây là vấn đề không có trong hợp đồng vì thuyền viên đã
được nhận 50 USD trên tàu hàng tháng. Việc thuyền viên ứng tiền dẫn đến cờ bạc,
rượu chè, vi phạm pháp luật và khi thuyền viên vi phạm thì các công ty XKLĐ Việt
Nam
lại phải gánh chịu các khoản tiền này. Hiện nay các công ty Việt Nam đang thống
nhất với các đối tác Đài Loan là không cho vay quá 200 USD. Nhưng trên thực tế
có một số lao động vay vượt quá 200 USD và Công ty môi giới vẫn trừ tiền của
phía Việt Nam
-Tàu cập cảng Mauritius thuyền viên Việt Nam bị các
thuyền viên lưu vong Indonexia đánh, cướp đồ đạc tiền bạc, nên thuyền viên Việt
Nam sợ xin về hoặc không dám nhập cảng Mauritius
4
.Về phía thuyền viên Việt Nam:
-Đại đa số các thuyền viên làm việc tốt và khi trở về
đã có điều kiện kinh tế tốt hơn và ổn định cuộc sống, được các chủ tàu thuê đi
lại nhiều hợp đồng. Tuy nhiên vẫn có một số thuyền viên đã vi phạm hợp đồng,
đánh nhau, uống rượu; có trường hợp bỏ trốn để định cư bất hợp pháp ở nước
ngoài, nhiều nhất khi tàu cập cảng Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, dẫn đến công
ty xuất khẩu lao động Việt Nam phải chịu mọi thiệt hại do chủ tàu trừ tiền.
- Nhiều thuyền viên có trình độ văn hóa thấp, khả năng
tiếp thu ngoại ngữ và hiểu biết hợp đồng hạn chế, nhưng đều có tâm lý muốn đi
nhanh không muốn khám sức khỏe, không muốn học các kiến thức cần thiết.
-Có thuyền viên đã làm nhiều cuốn hộ chiếu để đăng ký
nhiều nơi và xuất cảnh nếu công ty nào gọi trước. Thực tế có thuyền viên khi ra
sân bay đã phải quay về vì hộ chiếu sử dụng không hợp lệ.
- Cá biệt có thuyền viên đăng ký đi làm với động cơ
tìm cơ hội bỏ trốn khi có điều kiện. Thuyền viên Việt Nam đã bỏ trốn ở nhiều
nơi trên thế giới, gây thiệt hại không nhỏ cho các chủ tàu và công ty môi giới
Đài Loan, Hàn Quốc, công ty XKLĐ Việt Nam.
-Khi làm việc trên tàu, có thuyền viên Việt Nam đã gây hậu
quả nghiêm trọng như giết người, đốt tàu, đấu tranh tập thể, dùng dao cố ý gây
thương tích. Có thuyền viên đã bị xử tù ở nước ngoài.
- Thuyền viên vi phạm hợp đồng hoặc xin về nước trước
hạn nại ra những lý do đổ lỗi cho phía chủ tàu để nhằm không chịu trách nhiệm về
việc chủ tàu phạt. Hơn nữa, có nhiều thuyền viên đã đưa những thông tin không
đúng thực tế cung cấp cho các cơ quan báo chí, làm cho việc giải quyết giữa các
bên Đài Loan, Hàn Quốc và Việt Nam gặp nhiều khó khăn
5.
Về phía các đơn vị cung ứng thuyền viên tại các địa phương:
-Hiện nay số lượng tổ chức và cá nhân cung ứng nguồn
thuyền viên thuộc 4 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình là quá nhiều,
dẫn đến cạnh tranh gay gắt.
-Nhiều đơn vị cũng không nắm được lai lịch thuyền viên
khi giới thiệu cho các công ty XKLĐ (cụ thể như xác định có phải là thuyền viên
không, khả năng chịu sóng, tiền án, tiền sự, vấn đề sức khỏe, kinh nghiệm đi
làm việc ở nước ngoài, vi phạm hợp đồng trước đây).
-Vấn đề thu phí của thuyền viên cũng khác nhau, thậm
chí thu nhiều hơn quy định nên khi thuyền viên xuất cảnh mới thấy chi phí của bản
thân bị nhiều hơn và ảnh hưởng đến công việc khi thực hiện hợp đồng.
-Có trường hợp đã giới thiệu thuyền viên vi phạm hợp đồng
của các công ty khác để công ty XKLĐ mới
lại gánh mọi hậu quả phát sinh. Có trường hợp khai kinh nghiệm làm việc của
thuyền viên không đúng và khi thuyền viên lên tàu làm việc không đáp ứng yêu cầu,
bị chủ tàu hạ lương hoặc cho về nước gây thiệt hại cho thuyền viên và các công
ty XKLĐ.
IV. Phương hướng và các
giải pháp khắc phục của ban tàu cá cho năm 2015
1.
Đối với Hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam:
+Ban tàu cá trực thuộc VAMAS tổ chức các cuộc
họp với Hiệp hội tàu cá nước ngoài để thống nhất các điều kiện hợp đồng cung
ứng thuyền viên tàu cá, đặc biệt là thống nhất mức lương, mức xử phạt khi vi
phạm hợp đồng ; xem xét việc đàm phán để đối tác nước ngoài trả trực tiếp
lương cho người lao động.
+VAMAS tiếp tục chủ trì các cuộc họp với ban tàu cá để
bàn bạc, đưa ra các giải pháp tốt nhất về quy trình tuyển chọn thuyền viên, yêu
cầu các công ty cung ứng đào tạo thuyền viên cung cấp thông tin cho ‘hộp đen’ của
ban tàu cá để các công ty xuất khẩu lao động
không tuyển chọn thuyền viên vi phạm.
+Chất lượng tuyển chọn lao động ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, VAMAS tư vấn để doanh nghiệp
nâng cao chất lượng tuyển chọn lao động, trừ điểm khi doanh nghiệp vi phạm các
tiêu chí tuyển chọn trong COC-VN, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động.
2. Đối với các Công ty XKLĐ trong Ban tàu cá:
+Tuyển
chọn kỹ lưỡng, khám sức khỏe, đào tạo rèn luyện thể lực, giáo dục định hướng kỹ
cho người lao động trước khi xuất cảnh;
+Không
đưa đi làm việc ở nước ngoài đối với những người lao động có người thân sống bất
hợp pháp ở nước ngoài;
+Không
tuyển dụng các thuyền viên đã vi phạm hợp đồng trở về nước;
+Không
ký hợp đồng với các công ty môi giới nước ngoài không thực hiện đúng các điều
khoản đã ký trong hợp đồng như là trả lương chậm, không giải quyết kịp thời các
vấn đề phát sinh khi thuyền viên đang làm việc ở nước ngoài, các trường hợp chủ
tàu phá sản, các chủ tàu có tình hình tài chính không tốt;
+Không cung cấp thuyền viên cho các chủ tàu thường
xuyên đánh cá bất hợp pháp ở các vùng biển quốc tế, các tàu không đủ khả năng
hoạt động dài ngày trên biển, các chủ tàu thường xuyên có vấn đề về đối xử
không công bằng giữa các thuyền viên trên tàu, hay đánh đập thuyền viên Việt
Nam vv…
+Không cung cấp thuyền viên nhập tàu ở những nước mà
có nguy cơ thuyền viên bỏ trốn cao.
+Thường xuyên liên lạc,
yêu cầu phía chủ tàu cung cấp thông tin về tình hình làm việc của thuyền viên,
ngoài ra phải phối hợp với gia đình thuyền viên (thông qua các kỳ trả lương
hàng tháng của thuyền viên) để biết thêm tin tức để sẵn sàng giải quyết các
phát sinh trên tàu.
+Phải mua bảo hiểm tai nạn và sinh mạng cho thuyền
viên kể từ ngày thuyền viên xuất cảnh đến khi về nước, vi làm việc trên biển là
công việc nặng nhọc và nhiều rủi ro.
+Để hạn chế các vấn đề về ngôn ngữ và công việc, phong
tục tập quán, các doanh nghiệp bố trí kết hợp thuyền viên đi lại (có kinh nghiệm
làm việc trên tàu nước ngoài) với thuyền viên đi mới (chưa có kinh nghiệm đi
làm việc ở nước ngoài), giúp thuyền viên đi mới giảm bớt khó khăn trong giai đoạn
đầu làm việc trên tàu.
+Duy trì họp Ban cung ứng 1 lần/quý.
+ Phát hiện các công ty không nằm trong ban tàu cá ký
kết các hợp đồng không theo quy định của ban tàu cá dẫn đến cạnh tranh không
lành mạnh.
+ Hàng năm chủ động mời các thành viên trong Ban tàu
cá Cao Hùng sang Việt Nam
để bàn bạc, thống nhất hợp đồng giữa bai bên nhằm tăng cường hiểu biết lẫn
nhau, giải quyết tốt các vấn đề phát sinh khi đưa thuyền viên đi làm việc ở nước
ngoài.
+Hàng năm tổ chức gặp mặt các gia đình thuyền viên đang làm việc ở nước
ngoài để thông tin tình hình làm việc, tìm hiểu các vướng mắc phát sinh để giải
quyết, động viên gia đình để khuyên nhủ con em làm việc tốt ở nước ngoài.
+Các công ty cần có trung tâm đào tạo thuyền viên tại các địa phương có
nguồn để tuyển chọn, đào tạo, rèn luyện sức khỏe cho thuyền viên, giảm thiểu
các chi phí cho người lao động và nắm rõ hơn nhân thân, hoàn cảnh gia đình của
họ.
+ Khi xảy ra sự cố trên tàu có thuyền viên của nhiều công ty, các công
ty cần chủ động liên hệ với nhau để nắm bắt chính xác tình hình và thống nhất
báo cáo với cơ quan nhà nước và cung cấp thông tin cho báo chí.
+ Cần hình thành mối liên kết nhóm, để hỗ trợ lẫn nhau và thống nhất
cách xử lý sự cố.
3. Đối với các đơn vị cung ứng, giới thiệu lao động
tại địa phương:
+Tìm hiểu kỹ nhân thân của các thuyền viên và gia đình
khi giới thiệu cho các công ty XKLĐ để không tuyển chọn những người có tiền án,
tiền sự, vi phạm hợp đồng ở các thị trường khác.
+Giới thiệu đúng khả năng của thuyền viên, kinh nghiệm
làm việc ở nước ngoài, không để thuyền viên khai man kinh nghiệm gây hậu quả
nghiêm trọng.
+Tránh cạnh tranh không lành mạnh trong việc giới thiệu
thuyền viên. Không để thuyền viên có một lúc nhiều hộ chiếu hoặc cùng một lúc
đăng ký tại nhiều công ty dẫn đến việc hoãn bay khi đã được điều động hoặc có lịch
xuất cảnh.
+Thay mặt cho các công ty trả lương cho gia đình thuyền
viên đúng kỳ hạn và có xác nhận việc thanh toán lương cho gia đình thuyền viên.
Phối hợp với các công ty XKLĐ và gia đình thuyền viên
giải quyết những phát sinh trên tàu do những lỗi của thuyền viên gây ra như đòi
về nước trước hạn, xin về nước vì lý do cá nhận hoặc lý do từ gia đình thuyền
viên…
+Cùng với các công ty XKLĐ, gia đình thuyền viên chia
sẻ các rủi ro do thuyền viên gây ra, đặc biệt là các lỗi nghiêm trọng như đánh
nhau, giết người, đốt tàu…
+Nếu tuyển lao động đồng bằng và vùng núi để làm thuyền
viên đánh cá trên tàu Đài Loan cần phải tổ chức tuyển chọn kỹ, phối hợp cùng
công ty XKLĐ tổ chức đào tạo, giáo dục định hướng và rèn luyện sức khỏe, khả
năng chịu sóng và đánh bắt hải sản dài ngày trên biển.
4. Phối hợp với các đối tác nước ngoài :
+Phối
hợp chặt chẽ với ban tàu cá Cao Hùng,
đưa ra những hợp đồng chung nhất để các công ty xuất khẩu thuyền viên phải ký kết
theo mẫu, tránh thiệt thòi khi ký hợp đồng cho thuyền viên. Với các đối tác Hàn
Quốc cũng cần phối hợp để ký nội dung hợp đồng thống nhất.
+
Không cung ứng thuyền viên cho các chủ tàu có nhiều vấn đề về tài chính như: chậm
lương, thường xuyên xảy ra các vấn đề với thuyền viên Việt Nam, các chủ
tàu đánh cá bất hợp pháp.
+ Phối
hợp với nhau giữa các công ty xuất khẩu thuyền viên để giải quyết các vấn đề liên quan đến thuyền
viên Việt Nam của các công ty cung ứng làm việc trên một tàu, tránh tình trạng
các công ty môi giới nước ngoài giải quyết không thống nhất với nhau.
+Trao
đổi những kinh nghiệm của từng công ty về những tình huống, rủi ro đã gặp phải ;
phân loại và không hợp tác với những công ty môi giới nước ngoài và chủ tàu
không thiện chí.
Xuất
khẩu thuyền viên tàu cá là một lĩnh vực nhiều rủi ro, sự cố. Với kinh nghiệm
nhiều năm và sự nỗ lực vượt bực của đại đa số các thành viên trong Ban tàu cá,
năm 2014 các doanh nghiệp đã đưa được hàng nghìn lao động đi làm việc trên tàu
cá nước ngoài, góp phần vượt kế hoạch chung về xuất khẩu lao động trong cả nước,
tạo việc làm và thu nhập hơn ở trong nước cho người lao động. Các tranh chấp, vụ
việc xảy ra đều được các doanh nghiệp nỗ lực giải quyết, bảo đảm quyền lợi của
người lao động. Hoạt động tích cực và có hiệu quả của Ban tàu cá đã tăng thêm sức
mạnh đồng thuận của cộng đồng doanh nghiệp, tạo thế mạnh gắn kết khi thương thảo
với đối tác nước ngoài về các điều kiện ngày một có lợi hơn cho doanh nghiệp và
người lao động. Năm 2015, nếu có cơ hội mở thêm thị trường cung ứng thuyền viên
tàu cá mới, đề nghị các cơ quan nhà nước cần ưu tiên giao việc cung ứng cho các
doanh nghiệp trong Ban. Với kinh nghiệm và sự liên kết chặt chẽ, các doanh nghiệp
này có khả năng xác lập trật tự từ đầu, đảm bảo quyền lợi của người lao động và
cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam./.