TIẾNG NÓI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP 11/10/2016 17:19 Trong đợt khảo sát ý kiến người lao động đang học khóa bồi dưỡng kiến thức cần thiết trước khi đi làm việc ở nước ngoài về chất lượng đào tạo cũng như dịch vụ của doanh nghiệp phục vụ cho việc xếp hạng doanh nghiệp thực hiện Bộ Quy tắc ứng xử năm 2015-2016, lãnh đạo một số doanh nghiệp đã có một số kiến nghị nội dung liên quan đến công tác xuất khẩu lao động. Tổng hợp các kiến nghị có thể nhóm lại một số nội dung chính sau:

1.     Về các quy định pháp lý hiện hành 

  Năm 2017 sẽ là năm thứ 10 thực hiện Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, các Cơ quan nhà nước cần có các bước chuẩn bị để tổ chức Hội nghị tổng kết đánh giá 10 năm thi hành Luật. Có nhiều điểm cần xem xét để bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình mới. Ví dụ như việc phải đổi giấy phép XKLĐ khi thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, mặc dù những nội dung ấy không liên quan đến điều kiện cấp phép XKLĐ, hoặc nếu cơ sở đào tạo của doanh nghiệp không nằm tại trụ sở chính, trong giấy phép nên ghi thêm địa chỉ cơ sở đào tạo giáo dục định hướng, nếu không sẽ bị địa phương gây khó dễ. Do vậy, thiết kế mẫu giấy phép nên có phần dành cho các sửa đổi, bổ sung. Mỗi lần thay số giấy phép, doanh nghiệp phải mất rất nhiều thời gian thuyết trình với hàng chục đối tác nước ngoài và trong nước.

Bộ Lao động-Thương binh và xXã hội có văn bản yêu cầu các Sở bỏ giấy phép “con” từ tỉnh đến huyện và xã; loại giấy phép này thường rất ngắn hạn. Muốn để người lao động được hưởng các chính sách đặc thù của địa phương ( vay vốn, hỗ trợ chi phí…) doanh nghiệp bắt buộc phải lần lượt trình diện ở 3 cấp chính quyền trên. Đề xuất : Chỉ cần người lao động trực tiếp trình giấy tờ đi làm việc ở nước ngoài là hệ thống tổ chức ở địa phương giải quyết các quyền lợi dành cho người lao động ( nếu có ). Đồng thời, để địa phương quản lý được tình hình xuất khẩu lao động, Bộ quy định xử phạt nặng các doanh nghiệp không báo cáo kết quả tuyển chọn với địa phương.

Để tăng cường chất lượng đào tạo và tạo niềm tin với đối tác Nhật Bản, hầu hết số doanh nghiệp làm thị trường này đều thuê giáo viên, thậm chí cả quản lý người Nhật. Tuy nhiên, việc gia hạn giấy phép làm việc và cư trú rất phiền phức. Các cơ quan chức năng nên nghiên cứu lược bỏ các quy định không cần thiết.

Thẩm định Hợp đồng  chỉ nên 01 đầu mối là Cục – theo quy định của pháp luật. Việc thẩm định trước ở Ban QLLĐ là trùng lặp, phát sinh chi phí và cuối cùng cũng tính vào người lao động.

 

2.     Một số quy định liên quan tới thị trường Nhật Bản

-       Luật và quy định của 2 nước khác nhau khó cho doanh nghiệp: Hợp đồng Việt Nam yêu cầu kê khai các chi phí, có chi phí Nhật không cho phép (tiền môi giới, ký quỹ…).

-        Mẫu Hợp đồng chưa được Cơ quan nhà nước thống nhất ban hành có cập nhật các quy định mới. Do vậy, mỗi Doanh nghiệp áp dụng một khác và phải làm đi làm lại.

-        Hai nước có biện pháp để ngăn chặn tình trạng: TTS sắp hết hạn, vờ xin về nước với lý do cá nhân, nghiệp đoàn Nhật và doanh nghiệp Việt Nam đồng ý cho về. Sau khi về nước đến doanh nghiệp thanh lý Hợp đồng, lấy tiền ký quỹ, do hộ chiếu và phép lưu trú còn hạn nên quay sang Nhật rồi bỏ trốn;

-       Doanh nghiệp cạnh tranh không lành mạnh:

+ Trả giá cao để giành giật nguồn;

+ Để tranh giành đối tác, các khoản tiền thu từ phía đối tác Nhật Bản được quy định tại công văn 1123/ LĐTBXH-QLLĐNN, ngày 06-4-2016 của Bộ LĐ-TBXH, được một số doanh nghiệp ghi khống số tiền do phía Nhật chuyển rất cao trong hợp đồng đăng ký với Cục Quản lý lao động ngoài nước, nhưng trên thực tế thu rất thấp. Do vậy, các trường hợp bất thường này cần được cơ quan nhà nước tổ chức kiểm tra nhằm đối chiếu giữa hợp đồng đã đăng ký và số tiền phía Nhật chuyển qua tài khoản.

-       Giáo trình bồi dưỡng kiến thức cần thiết thiên nhiều về lý thuyết, cần bổ sung phần giảng về các kỹ năng mềm cho người lao động.

3.     Thị trường Đài Loan

Nới lỏng việc kiểm tra khán hộ công gia đình của Cục với người đã đi Đài Loan về, họ thường tuổi cao, học vấn thấp nên đọc hiểu và trả lời rất khó khăn. Thời gian 20 phút là quá ngắn, vì có người viết họ tên, ngày tháng năm sinh đã mất 3-4 phút, không còn thời gian để trả lời các câu hỏi.

 

4.    Về thực hiện Bộ Quy tắc ứng xử:

 

-       Nhà nước cần đưa quy định thực hiện CoC thành chế tài quan trọng trong việc cấp phép thành lập hoặc gia hạn giấy phép cho công ty về hoạt động XKLĐ, như quy trình tập huấn, ứng dụng cho doanh nghiệp trước khi cấp Giấy phép và kiểm tra xác nhận hàng năm về thực hiện nghiệp vụ XKLĐ theo quy tắc CoC trong hoạt động XKLĐ của doanh nghiệp;

-       Tuyên truyền quảng bá những lợi ích của doanh nghiệp khi thực hiện CoC và những chế tài khi không thực hiện hoặc thực hiện kém để tạo sự bình đẳng chuyên nghiệp trong hoạt động giữa các doanh nghiệp;

-       Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp được xếp loại tốt về thực hiện CoC, ví dụ như tuyên truyền, quảng bá thương hiệu uy tín để giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn lao động tại các địa phương, tuyển lao động trực tiếp, các dịch vụ ưu tiên trong việc vay vốn ngân hàng, thực hiện thủ tục giấy tờ, hộ chiếu cho lao động, visa, đăng ký hợp đồng tại Cục QLLĐNN…

-       Có chế tài kỷ luật đối với doanh nghiệp hoạt động XKLĐ không thực hiện Bộ quy tắc CoC để tạo sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường về dịch vụ và chất lwọng hoạt động./.