Báo cáo năm thứ năm
KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT,
ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ COC-VN NĂM THỨ 5 (2016-2017)
I . CÁC HOẠT ĐỘNG VÀ KẾT QỦA
1.1 Lựa chọn các doanh nghiệp mới bổ sung vào danh sách đánh giá
năm thứ 5
Đã vận động bổ sung thêm 20
DN mới, nâng tổng số DN trong diện giám sát đánh giá năm thứ 5 lên 106 DN .
Điều đáng lưu ý là, tuy số lượng DN
được giám sát đánh giá năm 2017 chỉ chiếm 34% tổng số DN được cấp phép, nhưng
số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài qua các DN này đã chiếm 68% tổng số
mà tất cả các DN được cấp phép đã đưa đi nước ngoài.
1.2Tập huấn cho CBNV các DN về CoC-VN và về các công ước ILO liên quan đến phòng chống lao động cưỡng bức, buôn bán người
1.2.1 Tổng số DN được tập huấn gồm:
- 20 DN mới : (Hà Nội: 19; Hưng Yên: 01):Số cán
bộ được tập huấn: 530 trong đó 316 nữ chiếm 59,6%.
- 3 DN cũ ( 01 th.p HCM và 02 Hà Nội ): Số cán
bộ được tập huấn: 110, trong đó 52 nữ, chiếm 47,2%.
1.2.2 Nội dung tập huấn
- Công ước 29 và công ước 105 của ILO về lao động cưỡng bức;
- Khái niệm, các yếu tố, các chỉ báo để xác định cưỡng bức lao động,
buôn bán người trong di cư lao động, liên hệ thực tế với trong hoạt động XKLĐ
của Việt Nam;
- Lợi ích của việc phòng chống lao động cưỡng bức, buôn bán người
trong XKLĐ;
- Nội dung CoC-VN, sự cần thiết thực hiện đối với DN tuyển dụng; kết
hợp giới thiệu các mô hình, cách làm tốt và tư vấn cho DN những nội dung
cần lưu ý đưa vào đàm phán và ký kết hợp đồng với Đối tác nước ngoài.
- Cơ chế và bộ công cụ giám sát đánh giá thực hiện CoC-VN;
- 10 việc DN cần làm để thực hiện tốt CoC-VN, phòng chống lao động
cưỡng bức, buôn bán người và xây dựng thương hiệu DN.
1.2.3 Những đổi mới nhằm nâng cao chất lượng
tập huấn năm 2017 đã thực hiện
- Trước khi chuẩn bị tổ chức tập huấn, lãnh đạo DN được lãnh đạo
Hiệp hội phổ biến rõ về ý nghĩa tầm quan trọng và yêu cầu của tập huấn. Nội
dung công tác chuẩn bị bao gồm chuẩn bị các loại tài liệu cho học viên, các mẫu
biểu về danh sách học viên, về kiểm tra đầu vào, đánh giá lớp tập huấn và viết
thu hoạch;
- Thực hiện kiểm tra đầu vào giúp học viên có ý thức ngay từ đầu tìm
hiểu những điều mới mà mình chưa trả lời được;
- Tổ chức cho học viên viết phiếu đánh giá về lớp học và đưa ra kế
hoạch của mình;
- Tất cả học viên đều viết thu hoạch về kết quả nhận thức sau tập
huấn.
Điều này vừa tăng thêm tính nghiêm túc trong
tập huấn, vừa giúp củng cố thêm kiến thức cho học viên.
1.2.4 Đánh giá của học viên về lớp tập huấn
Lãnh đạo và CBNV của các DN được tập huấn, kể
cả những người có thâm niên làm công tác XKLĐ cao, đều cho rằng, đây là lần đầu
họ được tiếp cận, trang bị những kiến thức mới rất cần thiết, một cách có hệ
thống về luật pháp quốc tế liên quan đến hoạt động của mình (mặc dù những Công
ước đó đã được ban hành từ những năm 30, 50 của thế kỷ trước, nay vẫn có hiệu
lực).
Họ cũng nhận thức được sâu sắc về nội dung, ý
nghĩa của CoC-VN, thấy nó thật cần cho DN và cho rằng cơ chế giám sát, đánh giá
rất tỉ mỉ và bao quát hoạt động của DN.
DN cũng hoan nghênh Hiệp hội đã hướng dẫn rõ
ràng những việc DN cần làm để thực hiện tốt CoC-VN và thể hiện quyết tâm thực
hiện.
Các DN bày tỏ mong muốn có những cuộc tập huấn
tương tự để giúp nâng cao trình độ, kỹ năng của CBNV doanh nghiệp.
1.3 Hoạt động phỏng vấn người lao động trước xuất
cảnh
Việc đánh giá hoạt động đào tạo, giáo dục
định hướng người lao động trước khi người lao động xuất cảnh của doanh nghiệp
được thực hiện thông qua hoạt động của Hội đồng giám sát và đánh
giá việc thực hiện COC-VN(Hội đồng giám sát). Hoạt động này báo gồm các nội
dung sau: (i) Ban lãnh đạo doanh nghiệp báo cáo hoạt động của DN năm qua và nêu
rõ các cải tiến có được khi áp dụng Bộ quy tắc CoC-VN; (ii) Tham dự lớp học của
người lao động trước xuất cảnh; (iii) Đối thoại với người lao động các vấn đề
liên quan tới các nội dung giáo dục định hướng mà người lao động đã được học,
chất lượng dịch vụ của công ty phái cử và nguyện vọng của người lao động; và
(iv) Trực tiếp lấy ý kiến người lao động thông qua phiếu hỏi.
Một điểm mới trong hoạt động
này, trong một số buổi khảo sát lớp học giáo dục định hướng lao động trước khi
xuất cảnh của một số doanh nghiệp phía Nam có sự tham gia của đại diện
ILO Và tổ chức IOM tại Việt Nam góp phần nhìn nhận một cách khách quan hơn
trong đánh giá thực trạng của hoạt động đào tạo trước xuất cảnh cho lao động
của các doanh nghiệp.
Các thành viên hội đồng giám sát đã
tham dự 106 lớp đào tạo của 106 doanh nghiệp, thực hiện lấy phiểu hỏi của 1.670
lao động tăng 17% so với năm khảo sát trước, trong đó thực hiện phỏng vấn
các lớp đào tạo lao động đi Nhật Bản: 83 lớp với 1.360 lao động, chiếm 81% số
lao động được phỏng vấn; Đài Loan: 20 lớp với 253 lao động chiếm 15%; và 3 lớp
tại các thị trường Ả rập Xê Ut, Malaysia, Rumania với 57 lao động chiếm
4% tổng số lao được phỏng vấn.
Kết quả khảo sát cho thấy một số
nhận xét sau:
1) Cơ cấu giới tính, độ tuổi và khu vực xuất cư
Số lao động được phỏng vấn có tỷ lệ nữ
chiếm 48% trong đó tỷ lệ này đối với lao động đi Nhật Bản là 47%, Đài Loan: 59%
và ở ba thị trường còn lại là 39%. Năm 2017, tỷ lệ nữ đi làm việc nước ngoài là
gần 40%.
Độ tuổi người lao động chiếm tỷ lệ cao ở nhóm
tuổi dưới 25 là 72% trong đó nữ chiếm 36%; Ở độ tuổi trên 30 chỉ chiếm 6,5%
trong đó tỷ lệ này ở thị trường Nhật Bản là 2,5%, Đài Loan là 7,5% và 43,8% ở
các thị trường còn lại.
Bộ phận lớn lao động xuất từ các
tỉnh miền Bắc, chiếm 49%, khu vực các tỉnh miền Trung là 33%, miền Nam: 14% và
khu vực các tỉnh Tây Nguyên là 4% tổng số lao động được phỏng vấn.
Nếu xét riêng từng thị trường tiếp nhận
thì đi Đài Loan, lao động xuất cư từ các tỉnh miền Bắc chiếm tới 63% số lao
động được phỏng vấn đi thị trường này. Tỷ lệ này tại thị trường Nhật Bản là
47%; Các thị trường còn lại là 30%.
2) Trình độ văn hóa
64% số lao động có trình
độ văn hóa bậc trung học phổ thông; 24% có trình độ từ cao đẳng trở lên và 08%
có trình độ tiểu học và trung học cơ sở. Tỷ lệ này ở lao động đi Nhật bản tương
ứng là 64%, 27% và 4%. Đi Đài Loan là 76%, 11% và 12%; Thị trường Nhật Bản tiếp
nhận người lao động có trình độ văn hóa cao hơn so với các thị trường khác.
Trong số lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên đi Nhật bản thì tỷ lệ nữ
chiếm 46% so với tổng số lao động có trình độ này đi Nhật bản và 53% tại thị
trường Đài Loan.
So với năm trước lao động được cung ứng
có trình độ văn hóa được cải thiện hơn . Số liệu khảo sát đợt 4 (206) cho thấy
lao động có trình độ tiểu học và trung học cơ sở chiếm 17% thì ở đợt 5 (2017)
chỉ là 4% và tỷ lệ này chỉ tập trung vào thị trường Ả rập Xê út.
3) Kênh thông tin về tuyển chọn lao động
Kênh thông tin để
người lao động đến DN đăng ký tuyển chọn đi làm việc ở nước ngoài có tỷ lệ
không khác nhiều so với năm trước, cụ thể: thông tin qua bạn bè chiếm tỷ lệ:63%
(năm trước:53%); Người thân trong gia đình: 20% (năm trước18%); qua cán bộ địa
phương:5,7% (năm trước 9%); Cán bộ DN:4,3%( năm trước 7%); qua các kênh
truyền thông: 4,6% (năm trước 13%) và qua môi giới: 2,4%. Kênh thông tin từ bạn
bè và người thân trong gia đình luôn chiếm tỷ lệ cao và chiếm 83%. Tỷ lệ này
năm trước là 73%. Đây là dấu hiệu tích cực khi người lao động và gia đình họ
đánh giá được uy tín và chất lượng dịch vụ của công ty cung ứng. Tuy nhiên còn
có 2,4% số lao động đã đi qua kênh môi giới, con số tuy nhỏ với số lượng là 49
lao động song có tới 27% trong số này phải chi tiền ngoài cho môi giới để được
tới công ty tuyển dụng với mức chi thêm trung bình khoảng từ 4 đến 5 triệu
đồng. Điều này cần nhấn mạnh tới công tác truyền thông và sự giám sát chặt chẽ
của các công ty cung ứng sao cho người lao động không qua môi giới, làm tăng
thêm chi phí không đáng có cho người lao động.
4) Tình trạng việc làm trước tuyển chọn
Trên 70% số lao động
được phỏng vấn đã có việc làm trước khi được tuyển chọn đi làm việc ở nước
ngoài. Trong đó: nữ chiếm 50%. Về cơ cấu việc làm có tỷ lệ như sau: việc làm
trong nhà máy chiếm 46,3 số lao động có việc làm; xây dựng: 9,6%; Lao động nông
nghiệp: 4,2%; Dịch vụ: 4,7%; Lao động tự do và các ngành nghề khác đều chiếm 17,6%.
Nếu phân theo thị trường tiếp nhận thì số lao động đi Nhật Bản trước đó đã có
việc làm có tỷ lệ cao nhất là 72%, Khu vực khác là 42% và Đài Loan là 24%.
Có thể sơ bộ thấy, hiện số lao
động đi làm việc ở nước ngoài trong vài năm gần đây trước đó đã có việc làm có
xu hướng tăng lên và như vậy số lượng đã qua đào tạo cũng tăng lên. Nhận diện
được đặc điểm này để việc đào tạo lao động trước khi đi cần có sự điều chỉnh
cho phù hợp với từng thị trường tiếp nhận.
5) Các khoản phí phải nộp trước khi đi
99,7% lao động đều
trả lời là họ biết các khoản phí cần nộp khi tham gia các khóa học trước khi đi
và 0,3% số lao động chưa nắm rõ các khoản phí cần nộp. Tuy nhiên khi phỏng vấn
sâu nội dung này thì một số lao động chưa nêu rõ được cơ cấu từng loại chi phí
theo quy định như phí nào doanh nghiệp sẽ thu, phí nào thuộc người lao động tự
chi trả. Có trên 15% số lao động chưa giải thích được thế nào là phí dịch vụ,
phí đóng vào Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước của người lao động và cơ cấu của
phí đào tạo. Đây cũng là một vấn đề các doanh nghiệp cần quán triệt đầy đủ hơn
cho mọi NLĐ trong các khóa đào tạo. Kết quả khảo sát cũng cho thấy hầu hết
trong số họ đều chấp nhận mức phí được DN thông báo. Tổng chi phí cho từng thị
trường và cơ cấu của phí nhìn chung đều được các doanh nghiệp công khai trong
các thông báo tuyển dụng và không có sự khác biệt so với các mức quy định mà cơ
quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này ban hành.
6) Vay vốn trước khi xuất cảnh
Có 1.095 lao động có nhu cầu vay để
trang trải mọi chi phi trước khi xuất cảnh, chiếm 66% số lao động phỏng vấn,
năm trước con số này là 63%. Trong số này nguồn vay là người thân là 42% (năm
trước: 27%) với mức vay bình quân khoảng 46 triệu đồng (năm trước: 50 triêu
đồng/ Lao động); Vay qua kênh ngân hàng: 30% (năm trước:16%), với mức vay bình
quân khoảng 62,5 triệu đồng (năm trước: 64 triệu đồng/Lao động), vay qua cả 2 kênh ngân hàng và
người thân là 27% (năm trước: 57%) với mức vay bình quân 62,7 triêu đồng/lao
động và 1% phải vay ngoài với mức vay bình quân 78 triệu đồng/ lao động.
Nhu cầu vay vốn phân theo
thị trường, kết quả cho thấy, người lao động đi Nhật Bản có nhu cầu vay chiếm
66% (năm trước cũng có nhu cầu 66%); đi Đài Loan: 66,4% (năm trước là 69%) tổng
số lao động đi thị trường này, còn lao động đi các thị trường khác có nhu cầu
vay chiếm 49%.
7) Giáo dục định hướng trước khi đi
Các doanh nghiệp
được khảo sát đều tuân thủ các quy định về đào tạo giáo dục dịnh hướng cho
người lao động về chương trình cũng như thời lượng đào tạo. Cơ sở vật chất
trường lớp được đầu tư khá tốt, đặc biệt các khu đào tạo cho NLĐ đi Nhật. Cũng
như đợt khảo sát năm trước, không ít các doanh nghiệp vẫn duy trì và từng bước
đổi mới để thiết lập được môi trường sống và học tập như tại Nhật bản, Đài
Loan. Đội ngũ giáo viên cho NLĐ nhìn chung đảm bảo chất lượng và có trách nhiệm
trong công việc. Hoạt động đào tạo của một số doanh nghiệp đã mang tính chuyên
nghiệp như cáccông ty LOD, HOÀNG LONG CMS, ESHUHAI, ADC,
AIC,TRANSMINCO,THUẬNTHẢO, LETCO, TESHSIMEX, HAI PHONG, TIC, IIG, FUTURELINK,
JVNET…đã đem lại hiệu quả cao.
Tổng hợp các phiếu
khảo sát người lao động trước xuất cảnh cho thấy hoạt động đào tạo của các
doanh nghiệp một số kết quả sau:
- 100% người lao động đều tham gia các
khóa đào tạo của doanh nghiệp trước khi xuất cảnh.
- Trong 18 nội dung được hỏi về nội dung đào
tạo, giáo dục định hướng như nội dung, điều kiện, thời gian làm việc; tiền
lương, chế độ làm việc, phong tục tập quán tại nước đến, về đất nước con người,
về các điều cần phòng, tránh, các điều khoản của các loại hợp đồng, về chi phí
trước khi đi, bình đẳng giới, quyền lợi của lao động nữ; các khoản khấu
trừ tiền lương theo quy định; cách thức chuyển tiền, quy trình khiếu nại....
thì 95% lao động trả lời đã được học, nắm được các nội dung này và 5% còn có
một số nội dung chưa nắm được. Trong số này có 3,7% là lao động đào tạo đi Nhật
Bản và 19% là lao động trước xuất cảnh đi Đài Loan, Các nội dung người lao động
chưa nắm đầy đủ tập trung vào một số vấn đề sau: (i) Các khoản khấu trừ vào
lương theo quy định của nước tiếp nhận như thuế thu nhập, thuế cư trú đối với
Nhật Bản, các loại khấu trừ khi tham gia BHXH; (ii) Quy trình khiếu nại của NLĐ
đặc biệt đối với người lao động trước xuất cảnh làm việc tại thị trường Đài
Loan và (iii) Những điều người lao động cần phòng ngừa mà chủ yếu là cách phòng
chống quấy rối tình dục đối với lao động nữ trong một số tình huống được đặt
ra.
Ở các nội dung trên, không nhiều doanh nghiệp xây dựng được kịch bản hoặc các bài tập tình
huống để người lao động trao đổi và chủ động giải quyết. Việc lên lớp của giáo
viên vẫn duy trì cách dạy truyền thống – giáo viên đứng lớp thuyết trình và học
viên ghi chép. Ít lớp học có cách dạy theo nhóm, hoặc áp dụng các phương pháp
dạy tích cực tạo lập một không khí thật sự chủ động để người lao động sôi nổi
tham gia.cho các nội dung này trong quá trình đào tạo người lao động. Thực
trạng này đã được Ban giám sát của Hiệp hội góp ý trực tiếp cho lãnh đạo các
doanh nghiệp để nhanh chóng khắc phục và bổ sung thêm nội dung trong giáo dục
định hướng người lao động.
- Hầu hết lao động được hỏi đều hài lòng với
chất lượng dịch vụ đào tạo của doanh nghiệp, về đội ngũ giáo viên giảng dậy
cũng như cách làm việc của các bộ phận nghiệp vụ công ty trong hướng dẫn thủ
tục hồ sơ cho người lao động.
8) Nguyện vọng
Có tới 1.635
lao động, chiếm 98% lao động được khảo sát có nêu nguyện vọng khi ra nước ngoài
làm việc. Theo đó:
- Có 45% (tỷ lệ này năm trước là 46%)
mong muốn dược tăng ca, gia hạn hợp đồng, kiếm được nhiều tiền để trang trải
cuộc sống. Lý do kinh tế là một trong các định hướng cơ bản cho việc đi làm
việc ở nước ngoài. Ở thị trường Nhật tỷ lệ này là 38% (năm trước: 36%), Đài
Loan là 46% (năm trước: 66%), thị trường khác là 69%.
- Mong muốn khi về nước có việc làm có tỷ lệ là
14% (năm trước:18%), trong đó thị trường Nhật bản là 14% (năm trước 21%) và Đài
Loan: 18% (năm trước 8%).
- 29% (năm trước: 24%) có nguyện vọng
nâng cao tay nghề và ngoại ngữ; tỷ lệ này ở thị trường Nhật bản chiếm cao nhất
là 31% (năm trước: 29%);
- 07% số lao động có nguyện vọng khi về sẽ mở
doanh nghiệp riêng và 9% có nguyện vọng làm giáo viên dậy ngoại ngữ trong các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Nguyện vong này cũng tập trung chủ yêu vào số
lao động đi thị trường Nhật bản với tỷ lệ 17% so với tổng số TTS khảo sát đi
Nhật Bản.
Tỷ lệ mong muốn nâng cao tay
nghề và ngoại ngữ trong quá trình tu nghiệp và làm việc ở nước ngoài và khi về
sẽ mở doanh nghiệp riêng hoặc làm giáo viên dậy ngoại ngữ trong các doanh
nghiệp xuất khẩu đã được người lao động quan tâm hơn và cũng được các doanh
nghiệp nhấn mạnh trong quá trình đào tạo thông qua các buổi giao lưu giữa người
lao động thành đạt trở về với người lao động trước xuất cảnh của các doanh
nghiệp. Nhìn chung nhiều doanh nghiệp đã làm tốt hoạt động này.
9. Kiến nghị, đề xuất của người
lao động
Có 918 lao
động chiếm 55% số lao động được hỏi có nêu kiến nghị, đề xuất. Theo đó, 52%
(năm trước 14%) đề nghị về chính sách hỗ trợ thêm, kéo dài thời hạn hợp đồng
đối với TTS tại Nhật Bản; 11% (năm trước 12%) đề nghị về đào tạo gia tăng thêm
giờ thực hành; 6,5% (năm trước18%) muốn giảm chi phí trước khi đi; 19% (năm
trước 24%) kiến nghị đơn giản hơn về thủ tục; 9% (năm trước 7%) hiểu sâu hơn về
các điều khoản liên quan tới hợp đồng và 2,5% (năm trước 24%) các đề xuất
kiến nghị khác. Các kiến nghị nêu trên cũng đã được thông báo tới từng doanh
nghiệp khảo sát để doanh nghiệp bổ sung, làm rõ thêm cho người lao động trong
quá trình đào tạo, giáo dục định hướng.
Tóm lại, qua hoạt động này cho thấy các doanh
nghiệp vẫn duy trì sự quan tâm tốt hơn đến công tác đào tạo giáo dục định hướng
người lao động trước khi đi. Chất lượng đào tạo cho người lao động tốt hơn, nội
dung đào tạo đã gắn với các yêu cầu thị trường, đã có chú ý một số nội dung về
đào tạo liên quan đến giới như quyền lợi của người lao động nữ, cách phòng
tránh quấy rối tình dục mà trước đây chưa được nhấn mạnh.
Khảo sát cũng
cho thấy, doanh nghiệp đã nâng cao chất lượng đào tạo thông qua các hoạt động
đầu tư cơ sở vật chất, quan tâm chất lượng đội ngũ giảng viện, chuẩn hóa quy
trình đào tạo, thực thi nghiêm túc các quy định về nội dung, chương trình và
thời lượng đạo tạo đã được quy định. Qua đó chất lượng lao động trước khi đi
được cải thiện, người lao động tự tin và chủ động hơn khi sống và làm việc tại
môi trường mới, đặc biệt chất lượng lao động đi thị trường Nhật có những thay
đổi tích cực hơn và đồng đều trong nhiều doanh nghiệp so với thời gian trước.
Khảo sát nêu trên
cho phép nhận diện khái quát hoạt động đào tạo cho người lao động trước xuất
cảnh của các doanh nghiệp tham gia thực hiện Bộ Quy tác ứng xủ COC-VN. Từ đó
giúp cho các doanh nghiệp thấy được những mặt tích cực để củng cố phát huy cũng
như những hạn chế, thiếu sót để sớm khắc phục với mục tiêu nâng cao hơn nữa
chất lượng nguồn lao động cung ứng, đáp ứng các yêu cầu của từng thị trường
tiếp nhận.
1.4 Hoạt động phỏng vấn người lao động trở về
Để đánh giá khách quan chất
lượng dịch vụ của DN, Hội đồng đã thu thập kết quả khảo sát lấy ý kiến của NLĐ
đã trở về nước do Cán bộ của Tổng LĐLĐVN và cán bộ Hiệp hội phối hợp thực hiện.
Số NLĐ trở về được khảo sát là 186 (99 nam và 87 nữ) với cơ cấu độ tuổi: Dưới
25 tuổi chiếm 22%, Nhóm 25-30 tuổi: 59% và nhóm trên 30 tuổi: 19%. Họ làm việc
tại các thị trường có cơ cấu như sau: Nhật Bản: 133 (72%), Đài Loan: 34 (18%),
UAE: 05, Ả rập Xê Ut: 03, Malaysia: 02 và các thị trường khác: 09. Như vậy số
lao động khảo sát phân bố không đều giữa các thị trường và tập trung vào hai
thị trường trọng điểm Nhật Bản và Đài Loan chiếm 90% tổng số đối tượng được
phỏng vấn. Tổng hợp các thông tin khảo sát
cho thấy:
- Công việc của người lao động tại nước ngoài có cơ cấu như sau:
Công nhân nhà máy chiếm 76%, Xây dụng: 3% và 21% là các ngành nghề khác (Nông
nghiệp, Thủy sản, thuyền viên tầu cá…).
- 100% số NLĐ được hỏi đều tham gia các khóa đào tạo giáo dục định
hướng tại doanh nghiệp, tuy nhiên có 96% trong số này có tham gia các kỳ kiểm
tra và nhận chứng chỉ đào tạo. Điều quan trọng hầu hết người lao động đều cho
rằng hợp đồng ký với chủ sử dụng đều được đảm bảo với các điều khoản được doanh
nghiệp phái cử giải thích trước khi đi. Và người lao động đều đã ký hợp đồng
với doanh nghiệp, trong số này có tới 87% được ký trước 5 ngày. Do vậy, tình
trạng khiếu kiện của người lao động chỉ chiếm gần 2% tập trung vào vấn đề giờ
làm thêm còn ít.
- Về thanh lý hợp đồng sau khi về nước: 95% người lao động đã đến
doanh nghiệp thanh lý hợp đồng và đều hài lòng với hoạt động này. Trong số này
có tới 94% cùng với thanh lý hợp đồng, người lao động đã được doanh nghiệp tư
vấn về việc làm. Hầu hết các doanh nghiệp đã quan tâm tới nội dung này và là cơ
sở để người lao động gắn bó với doanh nghiệp phái cử. Theo đó, hầu hết người
lao động trả lời rằng họ hài lòng với chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp phái
cử và 98% trong số họ khi trở về đã giới thiệu người thân qua kênh công ty để
đi làm việc ở nước ngoài.
Tóm lại, qua hoạt động này cho thấy chất lượng dịch vụ của
các công ty phái cử đã được người lao động đánh giá theo hướng tích cực. Tuy
nhiên các kết quả trên mới chỉ phản ánh một phần người lao động tại hai thị
trường Nhật Bản và Đài Loan, nơi mà trong thời gian qua có sự đầu tư khá tích
cực và được giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước nên người lao
động tại hai thị trường này có được chất lượng dịch vụ khá đồng đều từ các
doanh nhiệp phái cử. Sự phân bố phiếu khảo sát nêu trên có thể chưa phản ánh
thật khách quan một số yêu cầu đặt ra, nhất là ở một số thị trường khu vực
Trung Đông và Bắc phi với 2 lĩnh vực giúp việc gia đình và lao động xây dựng.
Tuy nhiên một điểm khá rõ có thể cần rút kinh nghiệm thêm là cần làm tốt và đầy
đủ hơn công tác tư vấn về việc làm cho các lao động về nước để sao cho 100% sô
lao động được nhận sự hỗ trợ này trong thời gian tới và có được các thông tin
về hiệu quả của hoạt động này .
1.5 Tham gia đánh giá của các Sở LĐ-TB&XH
Đã
có 14 Sở LĐ-TB&XH thực hiện báo cáo đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp
tham gia COC-VN. Các đánh giá tập trung vào các nội dung sau: vấn đề tuyển
chọn; duy trì thông tin liên lạc với địa phương trong việc bảo vệ người lao
động ở nước ngoài; thực hiện chế độ báo cáo theo quy định; một số vi phạm cần
khắc phục; kinh nghiệm tốt và một số đề nghị của cơ quan lao động đối với nội
dung này.
Nhìn chung các đánh giá của
các Sở nêu trên đều cho rằng các doanh nghiệp đều đã tuân thủ các quy định
trong tuyển chọn, phối hợp với địa phương trong hoạt động XKLĐ và thực hiện chế
độ báo cáo theo quy định. Tuy nhiên, trong các báo cáo cũng lưu ý một số vấn đề
sau:
- Vấn đề duy trì một cách thường xuyên hơn thông tin về kết quả
tuyển chọn lao động (số lượng tuyển chọn và số lượng được xuất cảnh tại từng
thị trường của lao động địa phương) giữa đơn vị tuyển chọn và địa phương;
- Công tác báo cáo định kỳ đã được cải thiện và được các doanh
nghiệp thực hiện tốt hơn.
Một số Sở LĐTB&XH đã có báo cáo có
nội dung khá cụ thể với các đánh giá từng doanh nghiệp với mặt được và hạn chế
về hoạt động XKLĐ tại địa phương như báo cáo của Sở: Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Điện
Biên, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Đồng Nai và Cần Thơ.Tuy nhiên, cũng còn một số Sở,
do thay đổi nhân sự lãnh đạo sở, nên chưa thực hiện hợp tác cung cấp thông tin
đầy đủ, kịp thời.
II. NHẬN XÉT KẾT QUẢ TRIỂN KHAI
2.1 Mặt tích cực
- Đã triến khai khá đồng bộ các hoạt động trang bị và nâng cao
nhận thức cho các đối tượng được chọn để giám sát, đánh giá và cả các lực lượng
tham gia cung cấp thông tin để giám sát, đánh giá.
- Đã thu hút được sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ
quan thanh kiểm tra ở TW và địa phương, các Ban quản lý lao động Việt Nam ở
nước ngoài, Cục quản lý LĐNN và của người lao động vào quá trình thực
hiện giám sát, đánh giá. Đặc biệt là Tổng LĐLĐ VN đã tham gia vào việc lấy
phiếu phỏng vấn NLĐ trở về và dự kiểm tra một số lớp đào tạo giáo dục định
hướng..
- Hội đồng giám sát, đánh giá đã nghiêm túc, tích cực thu thập thông
tin, thực hiện đầy đủ quy trình và cơ chế giám sát, đánh giá, khách quan, công
bằng trong đánh giá doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp được chọn giám sát, đánh giá đã có những
chuyển biến tích cực trong việc hoàn thiện hơn các quy chế hoạt động hướng theo
chuẩn mực của Bộ quy tắc ứng xử. Nhiều doanh nghiệp đã không chỉ thụ động chờ
Hiệp hội đánh giá, mà chủ động giao nhiệm vụ và tổ chức theo dõi, giám sát đánh
giá nội bộ các bộ phận của doanh nghiệp. Nhờ vậy, có tác dụng tốt đến việc chấp
hành của cán bộ nhân viên.
- Phần lớn các doanh nghiệp đã có chuyển biến tích cực trong
việc chấp hành luật pháp và chế độ báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước TW, địa
phương, với các Ban quản lý lao động.
- Hội đồng giám sát, đánh giá đã nghiêm túc, tích cực thu thập thông
tin, thực hiện đầy đủ quy trình và cơ chế giám sát, đánh giá, khách quan, công
bằng trong đánh giá doanh nghiệp.
2 .2 Tồn tại, thiếu khuyết
Một số hạn chế của những Doanh nghiệp bị khấu trừ điểm:
- Chưa tuân thủ nghiêm túc Nhóm quy tắc 1- Tuân thủ các quy
định của pháp luật, trong đó tập trung vào các sai phạm sau:(i) Đào tạo chưa đủ
thời lượng theo quy định cho người lao động trước xuất cảnh: 02 DN;(ii) Chưa
niêm yết hoặc chưa báo cáo với cơ quan QLNN về chi nhánh của doanh nghiệp hoạt
động XKLĐ: 02 DN; (iii) Chưa tuân thủ đầy đủ việc ký HĐLĐ với người lao động
trước xuất cảnh: 01 DN; (iv) Chưa thông báo công khai, cung cấp đầy đủ các
thông tin cho người lao động: 02 DN
- Chưa tuân thủ đầy đủ Nhóm quy tắc 6 về tổ chức lao động xuất cảnh,
theo đó: (i) Chưa đăng ký hợp đồng với một lao động làm việc tại Ả rập Xê út:
01DN; (ii) Đưa người lao động vượt quá số đăng ký hợp đồng: 01 DN.
- Chưa tuân thủ tốt Nhóm quy tắc 11 về xấy dựng quan hệ đối
tác, theo đó còn chưa phối hợp trong việc thực hiện các báo cáo định kỳ với các
Sở LĐ-TB&XH địa phương tuyển LĐ và báo cáo các Ban quản lý lao động ở nước
ngoài nước theo quy định. Thực tế hoạt động này đã cải thiện nhiều so với trước
song vẫn còn 04 DN chưa thực thi đầy đủ quy định này .
2.2 Kết quả đánh giá Doanh
nghiệp
Bảng 1. Kết quả đánh giá,
xếp hạng Doanh nghiệp các năm
(Chia theo số DN thực hiện các năm)
Hạng
|
20 DN
năm đầu
|
47 DN
năm
thứ2
|
66 DN
năm thứ
3
|
86 DN
năm
thứ 4
|
106
DN
năm
thứ 5
|
6 sao
|
|
|
|
|
02
(1,9%)
|
5 sao
|
8 (40%)
|
11 (23,4%
|
26 (39%)
|
37 (43%)
|
53 (50%)
|
4 sao
|
8 (40%)
|
27 (57,4%)
|
36 (55%)
|
41 (47,7%)
|
46 (43,4%)
|
3 sao
|
3 (15%)
|
09 (19,2%)
|
04 (6%)
|
08 (9,3%)
|
5 (4,7%)
|
2 sao
|
1 (5%)
|
-
|
-
|
-
|
|
Bảng 2. Kết quả đánh giá năm thứ 5
(2017)
(Phân theo DN được đánh giá từ năm đầu, năm thứ 2, năm thứ 3,
năm thứ tư và năm thứ 5)
Hạng
|
106
DN
|
20 DN Nămđầu
|
26 DN
Năm
thứ2
|
18 DN
Năm thứ
3
|
22 DN
Năm thứ
4
|
20 DN
Năm thứ
5
|
6 sao
|
02 (1,9%)
|
02 (10%)
|
-
|
-
|
-
|
-
|
5 sao
|
53 (50%)
|
12 (60%)
|
12 (46%)
|
6 (33,3%)
|
14 (63,7%)
|
9 (45%)
|
4 sao
|
46 (43,4%)
|
06 (30%)
|
13 (50%)
|
9 (50%)
|
07 (31,8%)
|
11 (55%)
|
3 sao
|
05 (4,7%)
|
|
01 (4%)
|
3 (16,7%)
|
01 (4,5%)
|
-
|
2 sao
|
-
|
|
|
|
|
-
|
Bảng 3. So sánh kết quả đánh
giá qua 5 năm của 20 DN
được đánh giá từ năm đầu
Hạng
|
Năm đầu
|
Năm thứ 2
|
Năm thứ 3
|
Năm thứ 4
|
Năm thứ 5
|
6 sao
|
|
|
|
|
2 (10%)
|
5 sao
|
8 (40%)
|
9 (45%)
|
14 (70%)
|
12 (60%)
|
12 (60%)
|
4 sao
|
8 (40%)
|
9 (45%)
|
05 (25%)
|
07 (35%)
|
06 (30%)
|
3 sao
|
3 (15%)
|
2 (10%)
|
01 (5%)
|
01 (5%)
|
-
|
2 sao
|
1 (5%)
|
-
|
-
|
-
|
-
|
III MỘT SỐ KINH NGHIỆM
3.1 Việc triển khai thực hiện CoC-VN và giám sát đánh giá kết quả
thực hiện cần thu hút sự tham gia, phối hợp đồng bộ của Hiệp hội, cơ quan quản
lý nhà nước, cơ quan thanh tra kiểm tra về lao động ở cả TW và địa phương, các
Ban quản lý lao động VN ở nước ngoài và các tổ chức xã hội khác.
3.2 Để thực hiện thành công CoC-VN ở mỗi DN, trước hết DN cần
trang bị và nâng cao nhận thức cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt và cho toàn thể
cán bộ nhân viên của mình về ý nghĩa, nội dung và sự cần thiết phải chủ động
thực hiện tốt CoC-VN; Phải phân công lãnh đạo và chuyên viên theo dõi và
chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện ở các bộ phận của DN; Phải rà lại, bổ sung,
hoàn chỉnh các quy chế nội bộ hướng vào thực hiện CoC-VN; Theo dõi, khen
thưởng, động viên, nhắc nhở cán bộ nhân viên trong việc thực hiện.
3.3 Tăng cường hoạt động kiểm tra của Thường trực Hội đồng,
các thành viên hội đồng để phát hiện mô hình tốt và làm rõ mức độ vi phạm
của DN (nếu có). Việc này tiến hành thường xuyên không đợi đến cuối năm, sẽ có
tác động tốt và thuận lợi khi chấm điểm.
3.4 Việc thông tin các điển hình tốt từng việc thực
hiện ngay sau khi phát hiện và thẩm định, không chờ đến cuối năm, làm như vậy
sẽ kịp thời thúc đẩy và hỗ trợ các DN khác cũng làm tốt hơn.Năm 2016 đã chia sẻ
kịp thời trên 20 thực tiễn tốt của các DN trong thực hiện CoC-VN.
IV. KẾ HOẠCH GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ COC-VN NĂM 2018
4.1 Mở rộng diện giám sát đánh giá:
Năm thứ 5 sẽ mở rộng diện giám sát đánh giá đến 120 DN, gồm 106 DN
cũ và 14 DN mới.
4.2 Trang bị lại kiến thức về CoC-VN và ký thỏa thuận hợp tác với
5 Sở Lao động TBXH về hợp tác cung cấp thông tin, nhận xét đánh giá DN.
4.3 Tổ chức tập huấn cho toàn thể CBNV các DN mới và các DN tập
huấn lại do thay đổi nhiều nhân sự về CoC-VN và các công ước quốc tế liên quan
đến di cư lao động. Bổ sung thêm nội dung tập huấn về trao quyền cho phụ
nữ và bình đẳng giới trong di cư lao động.
Việc thực hiện sẽ bắt đầu ngay sau khi hội nghị này, các DN chủ
động đăng ký lịch tập huấn và nhu cầu giảng viên để Hiệp hội sắp xếp và theo
dõi việc tổ chức của DN.
4.4 Thăm, kiểm tra các lớp đào tạo chuẩn bị cho NLĐ trước xuất
cảnh, lấy phiếu phỏng vấn NLĐ để đánh giá về chất lượng đào tạo và dịch vụ của
120 DN.
4.5 Hoàn thiện bộ công cụ giám sát, đánh giá và tập huấn, triển
khai thực hiện.
4.6 Thỏa thuận để bổ sung thành viên Hội đồng giám sát đánh giá
gồm đại diện Tổng Liên đoàn lao động VN và Vụ bình đẳng giới BoojLao động TBXH.