Kết quả hoạt động giám sát, đánh giá việc thực hiện COC-VN năm thứ 4 (2015-2016)

   
Cập nhật: 03/09/2016 10:40
Xem lịch sử tin bài

BÁO CÁO NĂM THỨ TƯ

 

KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ VIỆC

THỰC HIỆN COC-VN NĂM THỨ 4 (2015-2016)                                                                      

    Với mục tiêu nâng cao chất lượng và thương hiệu doanh nghiệp, gắn liền với dịch vụ và bảo vệ tôt hơn người lao động (NLĐ) đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài,trong khuôn khổ Dự án “Tam giác”, Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam (VAMAS) đã triển khai giám sát, đánh giá 20 doanh nghiệp (DN) trong năm đầu thử nghiệm (từ tháng 4 - 2012 đến 4- 2013), ở 47 DN trong năm thứ hai (từ tháng 5- 2013 đến 5- 2014) và 66 DN trong năm thứ ba (từ tháng 6- 2014 đến 11- 2015); và 88 DN năm thứ tư (từ tháng 12/2015 đến 12/2016). Sau mỗi năm thực hiện, VAMAS đã cùng ILO tổ chức hội nghị sơ kết, đánh giá kết quả và công bố xếp hạng DN.

 I . CÁC HOẠT ĐỘNG VÀ KẾT QỦA

1.1 Lựa chọn các doanh nghiệp mới bổ sung vào danh sách đánh giá năm thứ 4 cùng 66 DN (đã được đánh giá năm thứ 3):

Đã vận động  bổ sung thêm 22  DN mới, nâng tổng số DN trong diện giám sát đánh giá năm thứ 4 lên 88 DN (trong đó, có 86 DN được xếp hạng và 2 DN loại khỏi danh sách xếp hạng do bị thu hồi giấy phép hoạt động).

      Điều đáng lưu ý là, tuy số lượng DN được giám sát đánh giá năm 2016 chỉ chiếm 31,4% tổng số DN được cấp phép, nhưng số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài qua các DN này đã chiếm 61,62% tổng số mà 280 DN được cấp phép đã đưa đi nước ngoài. 

 1.2. Tập huấn cho CBNV các DN về CoC-VN và các công ước ILO liên quan đến phòng chống lao động cưỡng bức, buôn bán người

Trong khuôn khổ dự án Tam giác về bảo vệ lao động di cư, thực hiện thỏa thuận được ký giữa Chủ tịch VAMAS và Giám đốc Văn phòng ILO tại Hà Nội (số 9134054), Hiệp hội XKLĐ Việt Nam đã triển khai tập huấn cho cán bộ, nhân viên của các DN tuyển dụng được bổ sung vào danh sách giám sát đánh giá thực hiện CoC-VN năm 2016,  với những kết quả đạt được như sau:

   1.2.1 Tổng số DN và chi nhánh DN mới CoC-VN được tập huấn gồm: 22 DN và 1 chi nhánh DN. Trong đó:

Số DN có trụ sở tại: Hà Nội: 13, Thành phố HCM: 6, Thái Bình: 1, Ninh Bình: 1, Hòa bình: 1 và Hà Tĩnh: 1.

    Trong số các DN và chi nhánh DN đã được tập huấn  nêu trên có công ty HAINDECO, trụ sở tại Hà Tĩnh, nhưng có chi nhánh tại thành phố HCM. Để giảm khó khăn và theo đề nghị của DN, Hiệp hội đã tổ chức tập huấn riêng cho CBNV thuộc chi nhánh thành phố HCM của công ty. Đây là hoạt động tăng thêm  so với kế hoạch. Nhưng được thực hiện cùng một chuyến công tác với 05 DN khác ở thành phố HCM để tiết giảm chi phí đi lại.

1.2.2 Nội dung tập huấn:

- Công ước 29 và công ước 105 của ILO về lao động cưỡng bức;

- Khái niệm, các yếu tố, các chỉ báo để xác định cưỡng bức lao động, buôn bán người trong di cư lao động, liên hệ thực tế với trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam;

- Lợi ích của việc phòng chống lao động cưỡng bức, buôn bán người trong XKLĐ;

- Nội dung CoC-VN, sự cần thiết thực hiện đối với DN tuyển dụng; kết hợp giới  thiệu các mô hình, cách làm tốt và tư vấn cho DN những nội dung cần lưu ý đưa vào đàm phán và ký kết hợp đồng với Đối tác nước ngoài.

- Cơ chế và bộ công cụ giám sát đánh giá thực hiện CoC-VN;

- 10 việc DN cần làm để thực hiện tốt CoC-VN, phòng chống lao động cưỡng bức, buôn bán người và xây dựng thương hiệu DN.

1.2.3 Những đổi mới nhằm nâng cao chất lượng, tập huấn năm 2016 đã thực hiện:

- Trước khi chuẩn bị tổ chức tập huấn, lãnh đạo DN được lãnh đạo Hiệp hội phổ biến rõ về ý nghĩa tầm quan trọng và yêu cầu của tập huấn. Nội dung công tác chuẩn bị bao gồm chuẩn bị các loại tài liệu cho học viên, các mẫu biểu về danh sách học viên, về kiểm tra đầu vào, đánh giá lớp tập huấn và viết thu hoạch;

- Thực hiện kiểm tra đầu vào giúp học viên có ý thức ngay từ đầu tìm hiểu những điều mới mà mình chưa trả lời được;

- Tổ chức cho học viên viết phiếu đánh giá về lớp học và đưa ra kế hoạch của mình;

- Tất cả học viên đều viết thu hoạch về kết quả nhận thức sau tập huấn.

Điều này vừa tăng thêm tính nghiêm túc trong tập huấn, vừa giúp củng cố thêm kiến thức cho học viên.

1.2.4 Đánh giá của học viên về lớp tập huấn:

Lãnh đạo và CBNV của các DN được tập huấn, kể cả những người có thâm niên làm công tác XKLĐ cao, đều cho rằng, đây là lần đầu họ được tiếp cận, trang bị những kiến thức mới rất cần thiết, một cách có hệ thống về luật pháp quốc tế liên quan đến hoạt động của mình (mặc dù những công ước đó đã được ban hành từ những năm 30, 50 của thế kỷ trước, nay vẫn có hiệu lực).

Họ cũng nhận thức được sâu sắc về nội dung, ý nghĩa của CoC-VN, thấy nó thật cần cho DN và cho rằng cơ chế giám sát, đánh giá rất tỉ mỉ và bao quát hoạt động của DN.

DN cũng hoan nghênh Hiệp hội đã hướng dẫn rõ ràng những việc DN cần làm để thực hiện tốt CoC-VN và thể hiện quyết tâm thực hiện.

Các DN bày tỏ mong muốn có những cuộc tập huấn tương tự để giúp nâng cao trình độ, kỹ năng của CBNV doanh nghiệp.

1.2.5 Về số người được hưởng lợi qua hoạt động tập huấn:

Có 569 người được hưởng lợi qua tham dự tập huấn, trong đó có 308 là nữ CBNV. Có DN huy động 100% CBNV dự tập huấn, một số CBNV do đi công tác nước ngoài hoặc lý do khác không dự tập huấn trên lớp lần này, Hiệp hội đã hướng dẫn để DN cung cấp tài liệu, cử người hướng dẫn và viết thu hoạch sau khi được hướng dẫn nghiên cứu.

1.3  Hoạt động phỏng vấn người lao động trước xuất cảnh :

      Việc đánh giá hoạt động đào tạo, giáo dục định hướng người lao động trước khi người lao động xuất cảnh của doanh nghiệp được thực hiện thông qua  hoạt động  của Hội đồng đánh giá. Hoạt động này báo gồm các nội dung sau: (i) Làm việc với ban lãnh đạo doanh nghiệp trình bầy báo cáo hoạt động của DN năm qua và nêu rõ các cải tiến có được khi áp dụng Bộ quy tắc CoC-VN; (ii) Tham dự lớp học của người lao động trước xuất cảnh; (iii) Đối thoại với người lao động các vấn đề liên quan tới các nội dung giáo dục định hướng mà người lao động đã được học, và (iv) Trực tiếp lấy ý kiến người lao động thông qua phiếu hỏi.Từ các hoạt động trên và thông qua xử lý các phiếu phỏng vấn người lao động trước khi xuất cảnh, Hội đồng đánh giá tổng hợp được các ý kiến phản hồi của người lao động về nội dung đào tạo, chất lượng dịch vụ trong lĩnh vực này của doanh nghiệp cũng như mong muốn của người lao động đối với doanh nghiệp. Một điểm mới trong hoạt động này, trong một số buổi khảo sát lớp học giáo dục định hướng lao động trước khi xuất cảnh đã có sự tham gia của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Cục quản lý lao động ngoài nước và Điều phối viên quốc gia Dự án Tam giác của ILO,  góp phần nhìn nhận một cách khách quan hơn trong đánh giá thực trạng của hoạt động giáo dục định hương cho lao động của các doanh nghiệp.

      Các thành viên hội đồng đã tham dự 66 lớp đào tạo của 84 doanh nghiệp, thực hiện lấy phiểu hỏi của 1.433 lao động tăng 27% so với năm trước khảo sát, trong đó thực hiện phỏng vấn  các lớp đào tạo lao động đi Nhật Bản: 60 lớp với 1039 lao động, chiếm 73% só lao động được phỏng vấn; Đài Loan: 20 lớp với 312 lao động chiếm 22%;  Ả rập Xê Ut: 1 lớp với 53 lao động chiếm 4% và 1 lớp lao động đi Malaysia có 29 lao động chiếm 1% tổng số lao động được phỏng vấn.

      Kết quả khảo sát cho thấy một số nhận xét sau:

1)   Cơ cấu giới tính, độ tuổi và khu vực xuất cư

     Số lao động được phỏng vấn có tỷ lệ nữ chiếm 57% trong đó tỷ lệ này đối với lao động đi Nhật Bản là 53%, Đài Loan: 59% và ở hai thị trường Ả rập Xê Út và Malaysia là 100%.

    Độ tuổi người lao động chiếm tỷ lệ cao ở nhóm tuổi dưới 25 là 59%; Ở độ tuổi trên 30 chỉ chiếm 18% và tập trung ở hai thị trường Malaysia và Ả rập Xê Út.

      Bộ phận lớn lao động xuất cư từ các tỉnh miền Bắc chiếm 54%, khu vực các tỉnh miền Trung là 27%, miền Nam: 17% và khu vực các tỉnh Tây Nguyên là 3% tổng số lao động được phỏng vấn.

     Nếu xét riêng từng thị trường tiếp nhận thì đi Đài Loan, lao động xuất cư thuộc các tỉnh miền Bác chiếm tới 68% số lao động được phỏng vấn . Tỷ lệ này tại thị trường Nhật Bản là 51%; Malaysia: 45% và Ả Rập Xê Ut: 38%. Riêng Ả Rập Xê Út lao động xuất cư tại các tỉnh miền Trung chiếm tỷ lệ cao hơn: 55%.

 2)Trình độ văn hóa

    54% số lao động có trình độ văn hóa bậc trung học phổ thông; 29% có trình độ từ cao đẳng trở lên và 17% có trình độ tiểu học và trung học cơ sở. Tỷ lệ này ở lao động đi Nhật bản tương ứng là 58%, 37% và 3%. Đi Đài Loan là 51%, 9% và 40%; Đi Malaysia : 48%, 0% và 52%; Đi Ả Rập Xê út: 8%, 2% và 90%. Thị trường Nhật Bản tiếp nhận người lao động có trình độ văn hóa cao hơn so với các thị trường khác.

  3) Kênh thông tin về tuyển chọn lao động

     Kênh thông tin để người lao động đến DN đăng ký tuyển chọn đi làm việc ở nước ngoài có tỷ lệ không khác nhiều so với năm trước, cụ thể: thông tin bạn bè chiếm tỷ lệ: 53% ; Người thân trong gia đình: 18%; qua cán bộ địa phương: 9%;  cán bộ DN: 7% và qua các kênh truyền thông: 13%. Kênh thông tin từ bạn bè và người thân trong gia đình luôn chiếm tỷ lệ cao và riêng tỷ lệ lao động nhận thông tin qua các kênh truyền thông có sự gia tăng cao hơn năm trước là dấu hiệu tích cực của tác động truyền thông đối với người lao động. Tỷ lệ này năm trước là 6%.

4)    Các khoản phí phải nộp trước khi đi

     100% lao động đều trả lời là họ biết các khoản phí cần nộp khi tham gia các khóa học trước khi đi. Tuy nhiên khi phỏng vấn sâu nội dung này thì một số lao động chưa nêu rõ được cơ cấu từng loại chi phí theo quy định như phí nào doanh nghiệp sẽ thu, phí nào thuộc người lao động tự chi trả (phí làm hộ chiếu, phí làm lý lịch tư pháp đối với NLĐ đi thị trường Đài Loan). Có khoảng 3% thuộc đối tượng này. Đây cũng là một vấn đề các doanh nghiệp cần quán triệt đầy đủ hơn cho mọi NLĐ trong các khóa đào tạo. Kết quả khảo sát cũng cho thấy hầu hết trong số họ đều chấp nhận mức phí được DN thông báo. Tổng chi phí cho từng thị trường và cơ cấu của phí nhìn chung đều được các doanh nghiệp công khai trong các thông báo tuyển dụng .

5)    Vay vốn trước khi xuất cảnh

      Có 904 lao động có nhu cầu vay để trang trải mọi chi phi trước khi xuất cảnh, chiếm 63% số lao động phỏng vấn, năm trước con số này là 74,31%. Trong số này nguồn vay là người thân là 27% (năm trước: 39,95%) với mức vay bình quân khoảng 50 triệu đồng (Năm trước:52 triêu đồng/Lao động); Vay qua kênh ngân hàng: 16% (năm trước: 32,42%), với mức vay bình quân khoảng 64 triệu đồng (Năm trước: 65 triệu đồng/Lao động) và vay qua cả 2 kênh ngân hàng và người thân là 57% (năm trước: 27,63%).

    Nhu cầu vay vốn phân theo thị trường, kết quả cho thấy, người lao động đi Nhật Bản có nhu cầu vay chiếm 66%, đi Đài Loan: 69% tổng số lao động đi thị trường này, còn lao động đi Malaysia và Ả Rập Xê Út không có nhu cầu vay.

6)    Giáo dục định hướng trước khi đi

     Các doanh nghiệp được khảo sát đều tuân thủ các quy định về đào tạo giáo dục dịnh hướng cho người lao động về chương trình cũng như thời lượng đào tạo. Cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư khá tốt, đặc biệt các khu đào tạo cho NLĐ đi Nhật, không ít các doanh nghiệp đã tạo môi trường sống và học tập như tại Nhật bản. Đội ngũ giáo viên cho NLĐ nhìn chung đảm bảo chất lượng và có trách nhiệm trong công việc. Hoạt động đào tạo của một số doanh nghiệp bước đầu mang tính chuyên nghiệp như các  công ty LOD, ESHUHAI, HITECO, AIC, TRAMINCO, THUẬNTHẢO, HOÀNG LONG CMS, LETCO, VINAINCOMEX, ADC, TOCONTAP SÀI GÒN, TECHSIMEX, HAI PHONG, TIC, GLOTECH…đã đem lại hiệu quả cao.

     Tổng hợp các phiếu khảo sát người lao động trước xuất cảnh cho thấy hoạt động đào tạo của các doanh nghiệp một số kết quả sau:

     - 100 %  người lao động đều tham gia các khóa đào tạo của doanh nghiệp trước khi xuất cảnh.

                  Trong 11 nội dung được hỏi liên quan tới phong tục tập quán tại nước đến, về đất nước con người, về các điều cần phòng, tránh, các điều khoản của các loại hợp đồng, về chi phí trước khi đi, và các khoản khấu trừ của chủ sử dụng lao động nước tiếp nhận thì 100 % lao động trả lời đã được học và nắm được các nội dung này. Tuy nhiên khi phỏng vấn sâu một số nội dung liên quan tới quy định về các khoản khấu trừ vào lương của chủ sử dụng lao động theo quy định của pháp luật nước sở tại như thuế thu nhập, thuế cư trú đối với Nhật Bản, các loại BHXH hoặc quy trình khiếu nại của NLĐ đối với người lao động tại thị trường Đài Loan và kế hoạch sử dụng đồng tiền có được khi về nước đối với người lao động đi thị trường Malaysia, Ả Rập Xê Út thì không ít  người lao động còn lúng túng và trả lời chưa thật đầy đủ. Đối tượng này chiếm khoảng 4% số lao động được phỏng vấn. Ít doanh nghiệp xây dựng được kịch bản hoặc các bài tập tình huống cho các nội dung này trong quá trình đào tạo người lao động. Thực trạng này đã được Hội đồng giám sát của Hiệp hội góp ý trực tiếp cho lãnh đạo các doanh nghiệp để nhanh chóng khắc phục và bổ sung thêm nội dung trong giáo dục định hướng người lao động.

    - Hầu hết lao động được hỏi đều hài lòng với chất lượng dịch vụ đào tạo của doanh nghiệp, về đội ngũ giáo viên giảng dậy cũng như cách làm việc của các bộ phận nghiệp vụ công ty trong hướng dẫn thủ tục hồ sơ cho người lao động.

    7) Nguyện vọng

      Có tới 1.402 lao động, chiếm 98% người lao động được khảo sát có nêu nguyện vọng khi ra nước ngoài làm việc (năm trước tỷ lệ này là 31%). Theo đó:

   - Có 46% (tỷ lệ này năm trước là 67,82%)  mong muốn dược tăng ca , gia hạn hợp đồng , kiếm được nhiều tiền để trang trải cuộc sống. Lý do kinh tế như là định hướng cơ bản cho việc đi làm việc ở nước ngoài. Ở thị trường Nhật tỷ lệ này là 36% (Năm trước: 41%), Đài Loan là 66% (Năm trước: 97%), Malaysia là 97% và Ả Rập Xê Út là 77%;

   - Mong muốn khi về nước có việc làm có tỷ lệ là 18% (năm trước:14,03%), trong đó thị trường Nhật bản là 21% và Đài Loan : 8%;

   - 24% (Năm trước: 7,46%)  có nguyện vọng nâng cao tay nghề và ngoại ngữ ; tỷ lệ này ở thị trường Nhật bản chiếm cao nhất là 29%( Năm trước: 23,65%);

    - 10% (Năm trước: 4,25% ) số lao động có nguyện vọng khi về sẽ mở doanh nghiệp riêng hoặc làm giáo viên dậy ngoại ngữ trong các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Nguyện vong naỳ cũng tập trung chủ yêu vào số lao động đi thị trường Nhật bản.

   Tỷ lệ mong muốn có việc làm khi về nước, nâng cao tay nghề và ngoại ngữ trong quá trình tu nghiệp và làm việc ở ngoài và khi về sẽ mở doanh nghiệp riêng hoặc làm giáo viên dậy ngoại ngữ trong các doanh nghiệp xuất khẩu LĐ có xu hướng gia tăng là các dấu hiệu tích cực của người lao động khi tham gia chương trình này so với trước.

  Về kiến nghị, đề xuất của người lao động:

     Chỉ có 274 lao động chiếm 19% số lao động được hỏi có nêu kiến nghị, đề xuất. Theo đó, 14% đề nghị về chính sách hỗ trợ thêm, kéo dài thời hạn hợp đồng đối với TTS tại Nhật Bản ; 12% đề nghị về đào tạo gia tăng thêm giờ thực hành; 18% muốn giảm chi phí trước khi đi; 24%  kiến nghị đơn giản hơn về thủ tục; 7% về hợp đồng và 24% các đề xuất kiến nghị khác. Các kiến nghị nêu trên cũng đã được thông báo tới từng doanh nghiệp khảo sát để doanh nghiệp bổ sung, làm rõ thêm cho người lao động trong quá trình đào tạo, giáo dục định hướng.

     Tóm lại, qua hoạt động này cho thấy các doanh nghiệp đều có những chuyển biến khá rõ nét trong công tác đào tạo giáo dục định hướng người lao động trước khi đi. Chất lượng đào tạo cho người lao động tốt hơn, nội dung đào tạo đã gắn với các yêu cầu thị trường , đã có chú ý một số nội dung về đào tạo liên quan đến giới như cách phòng tránh quấy rối tình dục mà trước đây chưa được nhấn mạnh  .Nhận định được thể hiện rõ ở các hoạt động của doanh nghiệp trong đầu tư cơ sở vật chất, chất lượng đội ngũ giảng viện, chuẩn hóa quy trình đào tạo, thực thi nghiêm túc các quy định về nội dung, chương trình và thời lượng đạo tạo đã được quy định. Qua đó chất lượng lao động trước khi đi được cải thiện, người lao động tự tin và chủ động hơn khi sông và làm việc tại môi trường mới, đặc biệt chất lượng lao động đi thị trường Nhật có những thay đổi tích cực hơn và đồng đều trong nhiều doanh nghiệp so với thời gian trước.

1.4 Hoạt động phỏng vấn người lao động trở về

   Để đánh giá khách quan chất lượng dịch vụ của DN, Hội đồng đã thu thập kết quả khảo sát lấy ý kiến của NLĐ đã trở về nước do Cán bộ của Tổng LĐLĐVN và cán bộ Hiệp hội phối hợp thực hiện. Số NLĐ trở về được khảo sát là 180 (100 nam và 80 nữ). Họ đã được các DN đưa  đi làm việc và trờ về từ các thị trường với số lượng sau:  Nhật Bản: 121 (67%),  Đài Loan: 34 (19%), Ả rập Xê Ut: 6, Malaysia: 7 và các thị trường khác: 12. Như vậy số lao động khảo sát phân bố không đều giữa các thị trường và tập trung vào hai thị trường trọng điểm Nhật Bản và Đài Loan chiếm 86% tổng số đối tượng được phỏng vấn. Tổng hợp các thông tin khảo sát cho thấy:

- Công việc của người lao động tại nước ngoài có cơ cấu như sau: Công nhân nhà máy chiếm 71%, Xây dụng: 8% và số còn lại là các ngành nghề khác (Nông nghiệp, Thủy sản…).

- Có tới gần 90% số NLĐ được hỏi đã tham gia các khóa đào tạo giáo dục định hướng tại doanh nghiệp và được nhận giấy chứng chỉ đào tạo. Trên 10% không có ý kiến về nội dung này. Điều quan trọng hầu hết người lao động đều cho rằng hợp đồng ký với chủ sử dụng đều được đảm bảo với các điều khoản được doanh nghiệp phái cử giải thích trước khi đi. Do vậy, tình trạng khiếu kiện của người lao động về có bản không xẩy ra. 

- Về thanh lý hợp đồng sau khi về nước: có tới 98% số NLĐ được hỏi khi về nước đã tới doanh nghiệp thanh lý hợp đồng và đều hài lòng với hoạt động này của doanh nghiệp.

 - Về tư vấn của DN  đối với NLĐ về việc làm sau khi về nước: có 165 lao động trả lời câu hỏi này, trong đó 89%  số NLĐ nhận được tư vấn việc làm của DN và 18 lao động chiếm 11% không nhận được sự tư vấn này.

-  Trả lời câu hỏi “Người lao động có hài lòng với dịch vụ của DN không?”  kết quả nhận được 178 người trả lời rằng họ hài lòng với chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp phái cử. Do vậy, có tới 98% trong số họ khi trở về đã giới thiệu người thân qua kênh công ty để đi làm việc ở nước ngoài.

  Tóm lại, qua hoạt động này cho thấy chất lượng dịch vụ của các công ty phái cử đã được người lao động đánh giá theo hướng tích cực. Tuy nhiên các kết quả trên mới chỉ phản ánh một phần người lao động tại hai thị trường Nhật Bản và Đài Loan, nơi mà trong thời gian qua có sự đầu tư khá tích cực và được giám sát khá chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước nên người lao động tại hai thị trường này có được chất lượng dịch vụ khá đồng đều từ các doanh nhiệp phái cử . Sự phân bố phiếu khảo sát nêu trên có thể chưa phản ánh thật khách quan một số yêu cầu đặt ra nhất là ở một số thị trường khu vực Trung Đông  và Bắc phi với 2 lĩnh vực giúp việc gia đình và lao động xây dựng. Tuy nhiên một điểm khá rõ có thể cần rút kinh nghiệm thêm là cần làm tốt và đầy đủ hơn công tác tư vấn về việc làm cho các lao động về nước để sao cho 100% sô lao động được nhận sự hỗ trợ này trong thời gian tới và có được các thông tin về hiệu quả của hoạt động này .

1.5 Tham gia đánh giá của các Sở LĐ-TB&XH

      Một trong các kênh đánh giá hoạt động của doanh nghiệp thực hiên CoC-VN là các nhận xét của các Sở LĐ-TB&XH nơi doanh nghiệp tiến hành các nghiệp vụ về tuyên truyền, tuyển chọn , giải quyết mọi phát sinh đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài và thực hiện công tác báo cáo định kỳ với cơ quan lao động địa phương theo quy định.

    Căn cứ vào số doanh nghiệp được lựa chọn để đánh giá trong năm 2016,  các Sở LĐTB&XH có doanh nghiệp tuyển chon lao động đã gửi báo cáo đánh giá về Hiệp Hội. Đã có 15 Sở LĐ-TB&XH thực hiện báo cáo đánh giá này. Các đánh giá Doanh nghiệp tập trung vào các nội dung sau: vấn đề tuyển chọn; duy trì thông tin liên lạc với địa phương trong việc bảo vệ người lao động ở nước ngoài; thực hiện chế độ báo cáo theo quy định; một số vi phạm cần khắc phục; kinh nghiệm tốt và một số đề nghị của cơ quan lao động đối với nọi dung này.

       Nhìn chung các đánh giá của các Sở nêu trên đều cho rằng các doanh nghiệp đều đã tuân thủ các quy định trong tuyển chọn, phối hợp với địa phương trong hoạt động XKLD và thực hiện chế độ báo cáo theo quy định. Tuy nhiên, trong các báo cáo cũng lưu ý một số vấn đề sau:

      -Vấn đề duy trì một cách thường xuyên hơn thông tin về kết quả tuyển chọn lao động (số lượng tuyển chọn và số lượng được xuất cảnh tại từng thị trường của lao động địa phương) giữa đơn vị tuyển chọn và địa phương;

      -Công tác báo cáo định kỳ tuy đã được cải thiện và được các doanh nghiệp thực  hiện tốt hơn so với thời gian trước tuy nhiên cũng cần lưu ý một số công ty chưa thực sự thực hiện đầy đủ công tác này.

     Một số Sở LĐTB&XH đã có báo cáo có nội dung khá cụ thể với các đánh giá từng doanh nghiệp với mặt được và hạn chế về hoạt động XKLĐ tại địa phương sẽ có tác dụng tích cực để DN nhìn nhận rõ hoạt động này để điều chỉnh tốt hơn trong thời gian tới, như báo cáo của Sở: Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Dương, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Thanh hóa, Đắc Lắc, Quảng Trị và Cần thơ.Tuy nhiên, cũng còn một số Sở, do thay đổi nhân sự lãnh đạo sở, nên chưa thực hiện hợp tác cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời.

II. NHẬN XÉT KẾT QUẢ TRIỂN KHAI

2.1 Mặt tích cực:

+ Đã triến khai khá đồng bộ  các hoạt động trang bị và nâng cao nhận thức cho các đối tượng được chọn để giám sát, đánh giá và cả các lực lượng tham gia cung cấp thông tin để giám sát, đánh giá.

+ Đã thu hút được sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thanh kiểm tra ở TW và địa phương, các Ban quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài,  Cục quản lý LĐNN và của người lao động vào quá trình thực hiện giám sát, đánh giá. Đặc biệt là, Tổng LĐLĐ VN đã tham gia vào việc lấy phiếu phỏng vấn NLĐ trở về và dự kiểm tra một số lớp đào tạo giáo dục định hướng..

+ Hội đồng giám sát, đánh giá đã nghiêm túc, tích cực thu thập thông tin, thực hiện đầy đủ quy trình và cơ chế giám sát, đánh giá, khách quan, công bằng trong đánh giá doanh nghiệp.

+ Các doanh nghiệp được chọn giám sát, đánh giá  đã có những chuyển biến tích cực trong việc hoàn thiện hơn các quy chế hoạt động hướng theo chuẩn mực của Bộ quy tắc ứng xử. Nhiều doanh nghiệp đã không chỉ thụ động chờ Hiệp hội đánh giá, mà chủ động giao nhiệm vụ và tổ chức theo dõi, giám sát đánh giá nội bộ các bộ phận của doanh nghiệp. Nhờ vậy, có tác dụng tốt đến việc chấp hành của cán bộ nhân viên.

   + Phần lớn các  doanh nghiệp đã có chuyển biến  tích cực trong việc chấp hành luật pháp và chế độ báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước TW, địa phương, với các Ban quản lý lao động.

    + Hội đồng giám sát, đánh giá đã nghiêm túc, tích cực thu thập thông tin, thực hiện đầy đủ quy trình và cơ chế giám sát, đánh giá, khách quan, công bằng trong đánh giá doanh nghiệp.
2 .2 Tồn tại, thiếu khuyết

   - Một số hạn chế của những Doanh nghiệp bị khấu trừ điểm:

    + Chưa tuân thủ nghiêm túc Nhóm quy  tắc 1- Tuân thủ các quy định của pháp luật, trong đó tập trung vào các sai phạm sau: (i) Đào tạo chưa đủ thời lượng theo quy định cho người lao động trước xuất cảnh: 3 DN; (ii) Chưa niêm yết hoặc chưa báo cáo với cơ quan QLNN về chi nhánh của doanh nghiệp hoạt động XKLĐ: 2 DN; (iii) Chưa tuân thủ đầy đủ việc ký HĐLĐ với người lao động trước xuất cảnh: 2 DN;

  + Chưa tuân thủ đầy đủ Nhóm quy tắc 6 về tổ chức lao động xuất cảnh , theo đó chưa đăng ký hợp động với một số lao động làm việc tại Ả rập Xê út: 3 DN;

  + Ba doanh nghiệp chưa thực hiện tốt nhóm quy tắc 9 – Về nước tái hòa nhập, theo đó còn đóng chậm hoặc thiếu vào Quỹ hỗ trợ Việc làm ngoài nước: 4 DN;

   + Chưa tuân thủ tốt Nhóm quy  tắc 11 về xấy dựng quan hệ đối tác , theo đó còn chưa phối hợp trong việc thực hiện các báo cáo định kỳ với các Sở LĐ-TB&XH địa phương nới DN tuyển LĐ và báo cáo các BQLLĐ ngoài nước theo quy định . Thực tế hoạt động này đã cải thiện nhiều so với trước song vẫn còn 5 DN chưa thực thi đầy đủ quy định này .

 - Đối với số DN chưa  tham gia vào quá trình giám sát, đánh giá thực hiện CoC-VN: phần lớn các DN này thiếu tích cực, chủ động , quyết tâm và ý thức đầy đủ về xây dựng thương hiệu DN thông qua thực hiện CoC-VN. Nhiều DN trong số này hoạt động chưa bài bản, còn nhiều thiếu khuyết trong tổ chức đào tạo giáo dục định hướng cho NLĐ trước xuất cảnh, hoặc còn vi phạm trong tuyển chọn , nên muốn né tránh, trì hoãn tham gia để tránh bị xếp hạng thấp. Đây vừa là tồn tại, vừa là thách thức đối với lộ trình mở rộng, tiến tới tất cả các DN đều  được giám sát, đánh giá và công bố hạng chất lượng dịch vụ theo chuẩn  mực của CoC-VN.

 - Đối với các DN đã được xếp hạng cao:

    Ngoài việc công bố rộng rãi kết quả xếp hạng, cũng là cách quảng bá  thương hiệu cho các DN được xếp hạng cao, đến nay chưa có được những cơ chế cụ thể để thực hiện trên thực tế khuyến khích các DN này, ví như ưu tiên trong xét chọn, giới thiệu  tham gia vào các thị trường mới, giảm bớt một số thủ tục hành chính ,…

2.2 Kết quả đánh giá Doanh nghiệp

Bảng 1. KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ DOANH NGHIỆP QUA CÁC NĂM:

 

Hạng

20 DN năm đầu

47 DN năm 2

66DN năm 3

86DN năm 4

5 sao

8 (40%)

11 (23,4%)

26 (39%)

37 (43%)

4 sao

8 (40%)

27 (57,4%)

36 (55%)

41 (47,7%)

3 sao

3 (15%)

 9 (19,2%)

04 (6%)

 8 (9,3%)

2 sao

1 (5%)

-

-

-

 

Bảng 2.  KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ NĂM THỨ 4 (2016)

(phân theo DN được đánh giá từ năm đầu, năm thứ  2, năm thứ 3 và năm thứ 4)

Hạng

Tổng 86 DN

20DN năm1

26DN năm2

18DN năm3

22DN năm4

5 sao

37 (43%)

12 (60%)

13(50%)

  3 (17%)

  9 (41%)

4 sao

41 (47,7%)

 7 (35%)

11 (42,3%)

11 (61%)

12 (54,5%)

3 sao

  8  (9,3%)

 1 (5%)

  2 (7,7%)

  4 (22%)

  1 (4,5%)

2 sao

-

-

-

-

-

 

Bảng 3. SO SÁNH KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ QUA 4 NĂM

CỦA 20 DOANH NGHIỆP ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ TỪ NĂM ĐẦU

 

Hạng

Năm đầu

Năm thứ  2

Năm thứ 3

Năm thứ 4

5 sao

8 (40%)

9 (45%)

14 (70%)

12 (60%)

4 sao

8 (40%)

9 (45%)

5 (25%)

7 (35%)

3 sao

3 (15%)

2 (10%)

1 (5%)

1 (5%)

2 sao

1 (5%)

-

-

-

 

III MỘT SỐ KINH NGHIỆM

3.1 Việc triển khai thực hiện CoC-VN và giám sát đánh giá kết quả thực hiện cần thu hút sự tham gia, phối hợp đồng bộ của Hiệp hội, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thanh tra kiểm tra về lao động ở cả TW và địa phương, các Ban quản lý lao động VN ở nước ngoài và các tổ chức xã hội khác.

3.2   Để thực hiện thành công CoC-VN ở mỗi DN, trước hết DN cần trang bị và nâng cao nhận thức cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt và cho toàn thể cán bộ nhân viên của mình về ý nghĩa, nội dung và sự cần thiết phải chủ động thực hiện tốt CoC-VN; Phải phân công lãnh đạo và chuyên viên theo dõi  và chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện ở các bộ phận của DN; Phải rà lại, bổ sung, hoàn chỉnh các quy chế nội bộ hướng vào thực hiện CoC-VN; Theo dõi, khen thưởng, động viên, nhắc nhở cán bộ nhân viên trong việc thực hiện.

 3.3 Tăng cường hoạt động kiểm tra của Thường trực Hội đồng, các thành viên hội đồng để phát hiện mô hình tốt và làm rõ mức độ vi phạm  của DN (nếu có). Việc này tiến hành thường xuyên không đợi đến cuối năm sẽ có tác động tốt và thuận lợi khi chấm điểm.

   3.4 Việc thông tin các điển hình tốt từng việc thực hiện ngay sau khi phát hiện và thẩm định, không chờ đến cuối năm, làm như vậy sẽ kịp thời thúc đẩy và hỗ trợ các DN khác cũng làm tốt hơn.Năm 2016 đã chia sẻ kịp thời trên 20 thực tiễn tốt của các DN trong thực hiện CoC-VN.

IV. KẾ HOẠCH GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ COC-VN NĂM 2017

4.1 Mở rộng diện giám sát đánh giá:

Năm thứ 5 sẽ mở rộng diện giám sát đánh giá đến 106 DN, gồm 86 DN cũ và 20 DN mới.

4.2 Trang bị lại kiến thức về CoC-VN và ký thỏa thuận hợp tác với 5 Sở Lao động TBXH về hợp tác cung cấp thông tin, nhận xét đánh giá DN.

4.3 Tổ chức tập huấn cho toàn thể CBNV 20 DN mới và các DN tập huấn lại do thay đổi nhiều nhân sự về CoC-VN và các công ước quốc tế liên quan đến di cư lao động. Bổ sung thêm nội dung  tập huấn về trao quyền cho phụ nữ và bình đẳng giới trong di cư lao động.

Việc thực hiện sẽ bắt đầu ngay sau khi hội nghị này, các DN chủ động đăng ký lịch tập huấn và nhu cầu giảng viên để Hiệp hội sắp xếp và theo dõi việc tổ chức của DN.

4.4 Thăm, kiểm tra các lớp đào tạo chuẩn bị cho NLĐ trước xuất cảnh, lấy phiếu phỏng vấn NLĐ để đánh giá về chất lượng đào tạo và dịch vụ của 105 DN.

4.5 Nghiên cứu bổ sung vào CoC-VN, cơ chế giám sát đánh giá những nội dung mới trong các công ước, chuẩn mực quốc tế về tăng quyền năng, bình đẳng giới với lao động nữ di cư.

 

Scroll