Điều 86:
Người chưa đủ tuổi 16 không được tuyển dụng vào bất kỳ công việc gì và không được phép vào bất kỳ nơi làm việc nào.
Điều 87:
Người
vị thành niên không được phép tuyển dụng nếu không được sự đồng ý của
người cha hoặc người giám hộ và phải có giấy phép riêng của Cục.
Nếu người vị thành niên là học sinh người Qatar thì phải có giấy chấp nhận của Bộ trưởng giáo dục Qatar.
Người vị thành niên không được phép tuyển dụng vào làm những công việc
có thể gây tác hại đến sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức. Các công việc này
sẽ do Bộ trưởng quyết định.
Điều 88:
Người
vị thành niên không được phép tuyển dụng trước khi họ được cơ quan có
thẩm quyền kiểm tra sức khoẻ và sức khoẻ đó phải phù hợp với công việc
đảm nhận.
Người chủ phải cho kiểm tra lại sức khoẻ của người vị thành niên ít nhất một năm một lần.
Điều 89:
Người
vị thành niên không được phép tuyển dụng vào làm các công việc qua đêm
hoặc vào những ngày nghỉ, các ngày lễ, làm thêm giờ và không được có mặt
tại nơi làm việc quá 7giờ liền.
Điều 90:
Thời
gian làm việc bình thường đối với người vị thành niên không được quá 36
giờ một tuần, và quá 6 giờ một ngày. Trong tháng Ramadan; số giờ làm
việc không quá 24 giờ/tuần và 1 ngày làm việc không quá 4 giờ.
Thời gian đi từ nhà đến nơi làm việc và ngược lại không được tính vào giờ làm việc.
Giờ
làm việc bao gồm cả 1 hoặc 2 lần nghỉ giải lao hoặc ăn trưa để không
phải làm việc liên tục quá 3 giờ. Các đợt nghỉ giải lao hoặc ăn trưa
không được tính vào giờ làm việc có trả lương.
Điều 91:
Chủ
phải lưu giữ hồ sơ liên quan đến người vị thành niên như giấy khai
sinh, giấy xác nhận đủ sức khoẻ và giấy xác nhận kiểm tra sức khoẻ
định kỳ.
Điều 92:
Chủ tuyển dụng 1 hoặc nhiều người vị thành niên phải thực hiện các việc sau đây:
1- Gửi báo cáo đến Cục cho biết tên và công việc của người vị thành niên và ngày họ làm việc.
2- Niêm yết công khai tại nơi làm việc giờ giấc làm việc và giờ nghỉ giữa chừng cho mọi người biết.
PHẦN 9: TUYỂN DỤNG PHỤ NỮ
Điều 93:
Phụ
nữ làm việc được trả lương tuơng đương với nam giới nếu họ cùng làm
một việc như nhau và được hưởng các cơ hội giống nhau về đào tạo và cất
nhắc đề bạt.
Điều 94:
Phụ
nữ không được tuyển dụng vào làm những công việc có hại cho sức khoẻ,
có ảnh huởng xấu về đạo đức hoặc những công việc khác do Bộ trưởng quyết
định.
Điều 95:
Phụ nữ không được tuyển dụng vào làm những công việc mà giờ giấc làm việc khác với giờ quy định của Bộ trưởng.
Điều 96:
Lao
động nữ đã làm việc tròn 1 năm cho chủ được phép nghỉ đẻ có lương với
thời gian là 50 ngày. Thời gian nghỉ đẻ bao gồm cả thời gian trước và
sau khi đẻ và thời gian nghỉ sau khi đẻ không được ít hơn 35 ngày.
Thời
gian nghỉ đẻ căn cứ vào giấy chứng nhận của bác sỹ có thẩm quyền về
ngày giờ sẽ sinh con. Nếu thời gian còn lại sau khi sinh con ít hơn 35
ngày thì người mẹ được nghỉ thêm trừ vào ngày nghỉ phép năm của mình.Nếu
nghỉ quá thì coi như nghỉ không lương.
Nếu
điều kiện chăm sóc y tế của người mẹ không cho phép đảm nhận công việc
sau khi hết hạn nghỉ đã quy định thì những ngày nghỉ quá hạn coi như
nghỉ không lương, với điều kiện thời gian vắng mặt của họ không vượt quá
60 ngày cộng dồn hoặc gián đoạn và có giấy xác nhận của Bác sỹ có thẩm
quyền về tình trạng sức khoẻ của họ.
Thời gian nghỉ sinh con không ảnh hưởng đến quyền lợi đối với các kỳ nghỉ khác của người mẹ.
Điều 97:
Người
sinh con, ngoài quyền lợi được hưởng các ngày nghỉ quy định tại điều 73
của luật này, thì năm thứ 2, sau năm sinh con, mỗi ngày được nghỉ tối
thiểu 1 giờ để chăm sóc con. Việc định giờ nghỉ này do người mẹ tự chọn.
Thời gian chăm sóc con đựợc tính vào giờ làm việc và không bị trừ lương.
Điều 98:
Chủ không được chấm dứt hợp đồng dịch vụ khi phụ nữ cuới xin và nghỉ đẻ như đã quy định tại điều 96.
Chủ
không được thông báo chấm dứt hợp đồng trong các kỳ nghỉ này và không
được gửi thông báo mà thời hạn sẽ hết trong lúc nghỉ đẻ.
PHẦN 10: AN TOÀN, SỨC KHOẺ NGHỀ NGHIỆP VÀ CHĂM SÓC XÃ HỘI
Điều 99:
Ngay
khi mới bắt đầu làm việc, Chủ hoặc người đại diện phải thông báo cho
người lao động biết về mức độ nguy hiểm của công việc, những biện pháp
phòng chống cũng như phải niêm yết các chỉ dẫn liên quan đến biện pháp
bảo vệ sức khoẻ nghề nghiệp tại nơi làm việc.
Điều 100:
Chủ
phải áp dụng mọi biện pháp phòng ngừa để bảo vệ người lao động trong
lúc làm việc để tránh thương tật hoặc tai nạn chết người cũng như các
biện pháp phòng ngừa cháy nổ hoặc hư hỏng máy móc thiết bị.
Chủ không được bắt người lao động phải chịu chi phí hoặc khấu trừ lương để sắm các phương tiện phòng ngừa này.
Trong
trường hợp chủ bỏ qua các biện pháp phòng ngừa hoặc sắp xẩy ra các tai
nạn có thể đe doạ đến tính mạng người lao động thì Cục phải báo cáo sự
việc này cho Bộ trưởng để có quyết định đóng cửa 1 phần hay toàn bộ nơi
làm việc hoặc ngừng hoạt động máy móc thiết bị nào đó nhằm hạn chế các
truờng hợp tai nạn có thể xẩy ra.
Trong
trường hợp ấy người chủ phải chịu trách nhiệm trả đủ lương cho người
lao động trong thời gian bị đóng cửa hay tạm ngừng hoạt động.
Điều 101:
Người
lao động không được vi phạm hoặc có ý định cản trở việc thi hành các
chỉ dẫn của chủ liên quan đến việc bảo vệ sức khoẻ và an toàn lao động
hoặc có hành vi làm hư hỏng thiết bị máy móc thuộc về an toàn lao động.
Người
lao động phải sử dụng trang bị bảo hộ lao động và tuân thủ các chỉ dẫn
của chủ nhằm ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Điều 102:
Sau
khi phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền, Bộ trưởng sẽ ban hành quyết
định liên quan đến bệnh nghề nghiệp và an toàn; đồng thời quy định các
dịch vụ và các biện pháp phòng ngừa để bảo vệ người lao động trong lúc
làm việc.
Điều 103:
Chủ
phải áp dụng các biện pháp bảo đảm vệ sinh và thông gió tại nơi làm
việc, cung cấp đủ ánh sáng và nuớc uống phù hợp với các quy định do cơ
quan có thẩm quyền ban hành.
Điều 104:
Chủ
sử dụng từ 5 đến 25 lao động phải có tủ thuốc sơ cứu; các phương tiện
sơ cứu do cơ quan có thẩm quyền quy định. Tủ thuốc phải để ở nơi mọi
người có thể nhìn thấy. Việc sử dụng tủ thuốc phải phân công cho 1
người đã được đào tạo đảm nhận.
Nếu số lượng lao động vượt quá 25 người, thì bố trí mỗi nhóm từ 5 đến 25 người 1 tủ thuốc.
Nếu số lượng lao động vượt quá 100 người thì chủ phải phân công cho 1 y tá đảm nhận công việc này.
Nếu số lượng lao động vượt quá 500 người thì chủ phải chỉ định 1 bệnh xá ít nhất có 1 Bác sỹ và 1 y tá đảm nhận công việc này.
Điều 105:
Phải tiến hành việc kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho những người dễ mắc bệnh nghề nghiệp do cơ quan có thẩm quyền quy định.
Chủ phải lưu kết quả khám sức khoẻ định kỳ trong hồ sơ của người lao động.
Nếu
kết quả cho biết người lao động đã mắc một trong những bệnh nghề nghiệp
thì chủ phải báo cáo Cục trong vòng 3 ngày kể từ ngày biết được kết quả
đó.
Điều 106:
Khi
chủ bố trí lao động làm việc ở những nơi xa thành phố mà ở đó không có
phương tiện giao thông thì phải cung cấp các dịch vụ sau:
1. Phương tiện giao thông phù hợp hoặc chỗ ở hoặc cả hai.
2. Nước uống.
3. Thực phẩm hoặc phương tiện đi mua.
Các địa điểm này do Bộ trưởng quy định cụ thể.
Điều 107:
Chủ
sử dụng 50 lao động trở lên phải cung cấp dịch vụ xã hội do Bộ truởng
quy định cụ thể; trong đó phải xem xét đến địa điểm làm việc, tình hình
nơi làm việc và số lượng lao động của hãng.
PHẦN 11: THƯƠNG TẬT VÀ ĐỀN BÙ THƯƠNG TẬT
Điều 108:
Nếu
người lao động bị tai nạn trong khi làm việc thì chủ hoặc người đại
diện phải thông báo ngay cho cảnh sát và cho Cục về tình hình này.
Thông
báo phải nói rõ tên, tuổi, nghề nghiệp, công việc, địa chỉ và quốc tịch
của người lao động, diễn biến của vụ tai nạn và các biện pháp hỗ trợ
ban đầu.
Ngay
sau khi nhận được tin báo, cảnh sát phải tiến hành điều tra và lập báo
cáo trong đó nói rõ tên chủ hoặc người đại diện, kể cả nhân chứng cũng
như mối quan hệ giữa công việc và vụ tai nạn đó.
Ngay sau khi hoàn tất việc điều tra, cảnh sát phải báo cáo cho Cục và thông báo cho chủ biết.
Điều 109:
Người
lao động bị thương tật có quyền được chăm sóc y tế và người chủ phải
chịu mọi chi phí phù hợp với quy định của cơ quan y tế có thẩm quyền.
Người
lao động được hưởng nguyên lương trong thời gian điều trị hoặc hưởng
lương trong thời gian 6 tháng tuỳ thuộc từng tình huống. Nếu việc điều
trị vượt quá 6 tháng thì người lao động được hưởng ½ số tiền lương cho
đến khi phục hồi hoặc được xác nhận mất hẳn khả năng làm việc hoặc chết
tuỳ thuộc từng tình huống.
Điều 110:
Người
thừa kế của người bị chết và người lao động bị mất 1 phần hay toàn bộ
khả năng lao động có quyền được bồi thường. Trường hợp bị chết, số tiền
bồi thường được tính theo các điều khoản qui định của đạo Hồi.
Người
bị mất toàn bộ khả năng lao động được nhận mức bồi thường như đối với
người bị chết. Tỷ lệ thương tật từng phần so với tỷ lệ thương tật toàn
phần được quy định trong phụ lục 2 của luật này. Số tiền bồi thường
trong trường hợp này sẽ được tính trên cơ sở tỷ lệ tổn thương nhân với
khoản tiền đền bù khi bị mất hoàn toàn khả năng lao động.
Điều 111:
Các khoản của 2 điều trên đây sẽ không được áp dụng nếu có một trong những bằng chứng sau đây:
1. Người lao động cố tình tự gây thương tích cho mình.
2. Người lao động bị thương tật trong lúc bị tác động của rượu hay ma tuý và đó là nguyên nhân gây ra thương tích.
3. Người lao động vi phạm các quy định về phòng tránh tai nạn nghề nghiệp do chủ quy định hoặc coi thưòng các quy định đó.
4. Người lao động không có lý do chính đáng mà từ chối việc khám, chữa thương tật theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
Điều 112:
Nếu
có tranh chấp giữa người lao động và chủ về tai nạn lao động hoặc bệnh
nghề nghiệp thì Cục phải chuyển vụ việc tranh chấp cho cơ quan có thẩm
quyền giải quyết. Quyết định của cơ quan này là quyết định cuối cùng.
Điều 113:
Quyền
của người lao động đòi bồi thường thương tật hoặc trợ cấp tử vong sẽ
hết hiệu lực sau một năm, kể từ ngày xác nhận thương tật, chết hoặc
khẳng định mất khả năng lao động do bệnh nghề nghiệp gây nên theo quy
định tại phụ lục 1 của luật này.
Điều 114:
Chủ
phải thanh toán khoản tiền bồi thường thương tật trong thời hạn không
quá 15 ngày kể từ ngày người lao động được xác nhận thương tật.
Chủ
phải đặt cọc khoản tiền bồi thường cho người lao động bị chết tại Toà
án trong vòng 15 ngày kể từ ngày người đó bị chết. Toà án sẽ phân chia
khoản tiền này cho những người thừa kế của người chết phù hợp với Luật
đạo Hồi hoặc luật áp dụng tại nước có người bị chết. Nếu sau 3 năm mà
không có người đến nhận thì khoản tiền này sẽ xung vào công quỹ nhà
nước.
Điều 115:
Sáu
tháng 1 lần, chủ phải báo cáo thống kê cho Cục tình hình tai nạn và
bệnh nghề nghiệp theo mẫu và nội dung do Bộ trưởng quy định.
PHẦN 12: TỔ CHỨC CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
Điều 116:
Người lao động làm việc trong các hãng, nơi mà số lao động là người Qatar không ít hơn 100 người, có thể thành lập uỷ ban gọi là "Uỷ ban lao động".
Các uỷ ban lao động trong các hãng thuộc ngành thương mại hay công nghiệp có quyền thành lập liên uỷ ban của ngành đó.
Liên uỷ ban của nhiều ngành khác nhau có thể thành lập "Tổng liên đoàn người lao động Qatar". Bộ trưởng sẽ quy định điều kiện và thủ tục thành lập các tổ chức trên.
Điều 117:
Các tổ chức của người lao động có tư cách pháp nhân ngay sau khi thành lập phù hợp với các điều khoản của luật này.
Điều 118:
Các
tổ chức này phải chăm lo đến quyền lợi chính đáng của các thành viên và
bảo vệ quyền lợi cũng như thay mặt họ trong những vấn đề liên quan đến
lao động.
Điều 119:
Cấm các tổ chức trên đây hoạt động với những nội dung sau:
1. Tham gia hoạt động chính trị và tôn giáo.
2. Chuẩn bị, in ấn, phân phát các tài liệu nhằm bôi xấu nhà nước hoặc chính phủ.
3. Đầu cơ tài chính.
4. Nhận quà tặng hoặc vật có giá trị ngoài quy định của Bộ trưởng.
Bộ trưởng có thể giải tán bất kỳ tổ chức nào nếu vi phạm một trong các điều quy định trên đây.
Điều 120:
Người lao động có quyền đình công nếu việc hoà giải giữa họ và chủ không thành, nhưng phải tuân thủ các bước sau đây:
1- Phải được sự chấp thuận của 3/4 số Uỷ viên liên Uỷ ban ngành thương mại và công nghiệp.
2- Phải
thông báo cho chủ biết trước 2 tuần, được Bộ trưởng chấp thuận và phải
thoả thuận về địa điểm và thời gian đình công với Bộ trưởng Bộ nội vụ.
3- Không được gây tổn hại đến tài sản của nhà nước và của công dân, không gây mất an toàn xã hội.
4- Cấm đình công ở những ngành công cộng nhạy cảm như dầu khí, điện, nước, cảng biển, sân bay, bệnh viện và giao thông công cộng.
5- Không được chọn giải pháp đình công trước khi tiến hành hoà giải với chủ.
Điều 121:
Các
tổ chức của người lao động phải công bố điều lệ hoạt động phù hợp với
mô hình do Bộ trưởng quy định và phải có những nội dung sau:
1- Điều kiện tư cách thành viên và trường hợp bị chấm dứt.
2- Các quy định về đề cử và và bầu cử.
3- Nguồn tài chính của tổ chức và khoản đóng góp của thành viên.
4- Chi phí ngân sách của tổ chức, các biện pháp quản lý chi tiêu và sổ sách chứng từ.
5- Quy định và thủ tục giải thể, tổ chức và sử dụng tài sản của các thành viên.
Điều 122:
Chủ không được ngăn cản hay xúi dục người lao động tham gia vào các tổ chức và hạn chế việc thực thi các quyền của họ.
Điều 123:
Sau khi được Bộ chuẩn y, Tổng liên đoàn lao động Qatar có quyền gia nhập các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực về tổ chức lao động.
(còn nữa)