CÓ GẦN 80.000 LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI TRONG 11 THÁNG ĐẦU NĂM 2013 25/12/2013 15:44 Theo thống kê chưa đầy đủ của Cục quản lý lao động ngoài nước, trong 11 tháng đầu năm 2013 có 78.644 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, tăng 7,98% so với số lao động đi làm việc ở nước ngoài cùng kỳ năm 2012, đạt 92,50% so với kế hoạch năm đặt ra. Riêng trong tháng 11, các doanh nghiệp đã cung ứng được 8.411lao động, giảm 12,21% so với tháng 10 liền kề.

MINH CHÂU      

 

Theo thống kê chưa đầy đủ của Cục quản lý lao động ngoài nước, trong 11 tháng đầu  năm 2013 có 78.644 lao động  Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, tăng 7,98% so với số lao động đi làm việc ở nước ngoài cùng kỳ năm 2012, đạt 92,50% so với kế hoạch năm đặt ra. Riêng trong tháng 11, các doanh nghiệp đã cung ứng được 8.411lao động, giảm 12,21% so với tháng 10 liền kề.

Tổng quan thị trường tiếp nhận lao động phân theo khu vực cho thấy:

1. Khu vực Đông Bắc Á:

Số lao động đi làm việc tại khu vực Đông Bắc Á là 56.745 người, chiếm tỷ trọng 72,14 tổng số đưa đi, tăng 21,74% số lượng lao động đưa đi so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

Lao động đi làm việc tại Đài Loan là: 41.713 người, chiếm 73,51% số lao động đưa đi trong khu vực này và chiếm 53,03% so với tổng số lao động đưa đi trong 11 tháng đầu năm 2013. Bình quân thị trường này mỗi tháng tiếp nhận 3.790 người. Riêng tháng 11 Đài Loan tiếp nhận 4.319 người giảm 1,42% so với tháng 10 liền kề.

Lao động đưa đi tại thị trường Nhật Bản: 8.119 người, tăng 2,86% so với 11 tháng  năm trước. Bình quân mỗi tháng cung ứng được 738 người. Trong tháng 11 con số này là 989 người.

Lao động đi  làm việc tại Hàn Quốc là 4.916 người bình quân mỗi tháng Hàn Quốc tiếp nhận 447 người. Quy mô tiếp nhận lao động VN giảm 46,07% so với cùng kỳ năm trước. Số lao động mới đưa đi chủ yếu là số lao động hết hạn hợp đồng trở về và chủ sử dụng lao động cũ có nhu cầu tiếp nhận họ.

Lao động đi làm việc tại Macao: 1.997 người, bình quân mỗi tháng Macao tiếp nhận 181 người, giảm gần 2,87% so với cùng kỳ năm trước. Riêng tháng 11, Macao tiếp nhận 271 người .

 2. Thị trường khu vực Đông nam Á:

Có 15.983 lao động Việt Nam đi làm việc tại thị trường này, chiếm 20,32% tổng số lao động đưa đi, giảm 14,27% quy mô lao động đưa đi so với cùng kỳ năm trước. Trong đó lao động sang làm việc tại Lào là 4.757 người; Cămpuchia: 4.141 người; và  Malaysia vẫn có quy mô tiếp nhận lớn nhất là 6.934 người, chiếm 43,38% số lao động đưa đi trong khu vực này và giảm 12,95% so với cùng kỳ năm trước.

3. Thị trường các nước khu vực Trung Đông và Bắc Phi:

Thị trường các nước khu vực Trung Đông tiếp nhận 3.350 lao động, chiếm 4,26% tổng số lao động đưa đi, giảm 27,59% so với cùng kỳ năm trước. Trong 11 tháng các doanh nghiệp chỉ  cung ứng lao động cho hai thị trường có số lượng đáng kể, đó là: UAE với 1.455 người và Ả Rập Xê-Út: 1.513 người, chiếm 88,60%  quy mô lao động đưa đi tại thị trường này.

Số lao động đi làm việc tại các nước Bắc Phi là 1.355 người, chiếm 1,72% tổng số lao động đưa đi, tăng 1,94 lần so với 11 tháng năm 2012. Trong đó, thị trường Lybia tiếp nhận trở lại lao động VN được 1.151người và trong tháng 11 là 03 người. Hiện thị trường này cũng đang gặp khó khăn  bởi nền kinh tế Lybia chậm phục hồi.

 4. Thị trường các khu vực khác:

Lao động đi làm việc tại các thị trường khác là 1.231 người, chiếm 1,56% tổng số lao động đưa đi. Trong đó thị trường Cộng hòa Síp tiếp nhận 143 người, chỉ chiếm 9,86%  quy mô lao động cung ứng vào thị trường này cùng kỳ năm trước.

Số liệu thống kê cũng cho biết lao động nữ đưa đi là 28.560 người, chiếm 36,31% tổng số lao động đưa đi.

Nếu trong 11 tháng đầu năm 2013 có 23 thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam, thì  trong tháng 1 chỉ có 13 thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam.

Tóm lại trong 11 tháng đầu  năm 2013, các thị trường tiếp nhận lớn lao động Việt Nam vẫn tập trung vào các nước (lãnh thổ) thuộc hai khu vực Đông Bắc Á và Đông nam Á. Sự gia tăng lao động tại hai khu vực này là yếu tố quyết định việc có thể đạt kế hoạch cung ứng lao động trong năm 2013.

      Trong khi đó thị trường khu vực Trung Đông và Bắc phi có xu hướng giảm, đặc biệt tại các thị trường thuộc khu vực Bắc phi. Thời gian tới nên có sự đánh giá đầy đủ hơn về khả năng cung ứng lao động tại các thị trường này để có thể gia tăng hơn nữa nhịp độ quy mô cung ứng lao động như những năm trước đây, nơi mà nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài còn rất lớn./.