Giới thiệu thị trường lao động Balan (phần I)
I. Tóm tắt tình hình thị trường lao động
Balan
nằm trên lãnh thổ Đông Âu, biên giới phía Đông của nước này đồng thời
là biên giới ngoài của Liên minh châu Âu, tiếp giáp với Ucraina và
Belarut. 38 triệu cư dân Balan sinh sống trên diện tích 312700 km2, dân
số giảm dần hàng năm. Về hành chính, Balan có 16 tỉnh với những đặc điểm
khá khác biệt nhau và dưới đó là 379 huyện.
Nguyên
nhân chính của việc thay đổi không có lợi về cơ cấu dân số đó là tỷ lệ
sinh thấp và sự chênh lệch về cán cân di cư lao động. Thực ra năm 2006,
năm đầu tiên sau 5 năm, có tỷ lệ sinh cao hơn , tuy nhiên bộ phận dân cư
chưa đến tuổi lao động vẫn ngày càng giảm đi và theo giới quan sát thì quá trình
già hoá trong dân cư vẫn tiếp diễn. Hậu quả là, số người có nguồn sinh
sống thông qua việc làm giảm đi. Xã hội với dân số già làm nảy sinh bất
cập là tỷ lệ ngưòi đi làm và tỷ lệ có việc làm cao nhất rơi vào nhóm
người ở lứa tuổi từ 35 đến 39 và với các nhóm người cao tuổi hơn thì cả
hai tiêu chí trên đều giảm đi.
Sự
thay đổi sâu sắc trên thị trường lao động Balan làm cho tình hình hiện
tại về việc làm và tỷ lệ người đi làm khác hẳn với tình hình tại các
nước EU còn lại. Số người có việc làm ở Balan chỉ chiếm 50% dân số có độ
tuổi từ 15 trở lên. Mức độ thụ động cao về việc làm tại Balan là hệ quả
của việc lao động trẻ bắt đầu cuộc sống nghề nghiệp càng ngày càng muộn
hơn, mặt khác là do việc tăng nhanh số người đến tuổi về hưu hoặc hưỏng
chế độ hưu non.
Năm
2006, số người có việc làm ở Balan tiếp tục tăng lên và các doanh
nghiệp tạo ra nhiều chỗ làm hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp vẫn tiếp
tục cao và tạo thành một trong những vấn đề nổi cộm nhất của thị trường
lao động Balan.
Năm
2003, năm đầu tiên sau 5 năm, số người đăng ký thất nghiệp đã giảm đi.
Đến cuối năm 2006, các Sở lao động địa phương thống kê được con số 2,3 triệu người đăng ký tìm việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp cuối 2006 là 14,9 % và thấp hơn trên 5% so với năm 2003.
Kinh
tế phát triển với tốc độ cao gia tăng các thay đổi có lợi cho thị
trường lao động, tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) năm 2006 đạt mức độ cao
nhất so với 9 năm trước đó. Trước tiên, nó làm sống động lại hoạt động
đầu tư. Trong các yếu tố góp phần vào việc cải thiện tình hình thị
trường lao động, trước tiên phải nhấn đến là : Tăng chi phí cho các
chương trình thị trường lao động tích cực; tăng cầu lao động; ngày càng
có nhiều người thất nghiệp quan tâm đến tự tạo việc làm; tận dụng nguồn
kinh phí từ quỹ tài trợ của EU; cải thiện chất lượng nguồn lao động, do
ngày càng có nhiều người tôt nghiệp các trường đại học.
Năm
2006, số chủ doanh nghiệp và những người tự tạo việc làm trong độ tuổi
từ 15 trở lên là 2,9 triệu người ( bằng 19,9 % người trong độ tuổi lao
động ), trong số này có hơn một nửa hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp,
săn bắt thuỷ hải sản và lâm nghiệp. Số chủ doanh nghiệp còn lại tập
trung chủ yếu vào các ngành thương nghiệp và sửa chữa, sản xuất công
nghiệp và xây dựng.
Trong
số chỗ làm việc thông báo còn trống năm 2006, có đến gần một nửa cần
thợ phụ việc và công nhân trong các ngành sản xuất thủ công và các nghề
nghiệp tương tự. Nhu cầu giảm đối với lao động kỹ thuật trong các ngành
nông, lâm,ngư nghiệp. Những nghề cần nhiều lao động, nhưng đồng thời
cũng có nhiều người thất nghiệp nhất, đó là các nghề nhân viên bán hàng,
thợ xây và quản lý nhà cửa.
Theo
tin tức thu thập được từ trên mạng Internet ( tháng 11-2007 ), hiện
Balan rất cần lao động nhập cư để xây dựng, nâng cấp hệ thống sân vận
động phục vụ cho EURO 2012. Cùng với Ucraina, Balan đã được chọn là nước
chủ nhà của EURO 2012. Do gia nhập EU từ năm 2004, hàng nghìn lao động
Balan đã đi tìm kiếm việc làm ở
các nước Tây Âu, gây ra tình trạng khó khăn trong việc tìm đủ nguồn lao
động phục vụ cho việc xây dựng hệ thống sân vận động cần thiết cho EURO
2012. Balan quyết định tìm nguồn lao động ở nước ngoài, gồm các nghề thợ
xây, lợp mái, thợ điều hành cần cẩu, thợ lái máy xúc và một số ngành
nghề khác. Balan đang xem xét nghiêm túc việc nhận lao động châu Á để có
thể khởi công các công trình.
Bộ trưởng lao động Balan, bà Anna Kalata, đã có chuyến công du đến New Dehli để tìm kiếm nguồn lao động. Bà phát biêủ với người dân
Ấn độ “để phục vụ cho EURO 2012 đang có tình trạng thiếu nghiêm trọng
lao động trong ngành xây dựng, chúng tôi cần các bạn”. Thêm vào đó, bà
cho biết nền kinh tế của đất nước tăng trưởng 7% càng làm cho vấn đề
nghiêm trọng thêm.
Tuy
nhiên, một số thành viên trong Chính phủ Balan cũng bày tỏ sự lo lắng
trong việc nhập cư lao động từ các nước ngoài khối EU, họ cho rằng yếu
tố an ninh cũng cần được đặt ra khi tuyển thêm lao động nhập cư.
Một
tổ công tác đặc biệt đã được thành lập dưới sự chủ trì của Thủ tướng
Jaroslaw Kaczynski, gồm đại diện các Bộ Ngoại giao, Lao động, Nội vụ và
An ninh , đang soạn thảo một kế hoạch hành động nhằm mở cửa thị trường
lao động. Chỉ có một cơ quan như vậy mới đưa ra được một nghiên cứu,
phân tích đầy đủ từ quan điểm về an ninh, vì trên thực tế đã có nước thu
hút nhiều lao động nhập cư về các công trình ở nông thôn, nhưng cuối
cùng nhiều lao động cũng dồn về các đô thị để hình thành các băng nhóm
tội phạm.
Balan
cũng đang xem xét việc tuyển chọn lao động từ vùng viễn đông. Một quan
chức nói “ chúng tôi cần phải đưa ra quyết định, hoặc là tuyển lao động
từ châu Á, những lao động này nhìn Balan là một nơi đến đầy hấp dẫn và
thường có nhiều người muốn định cư luôn tại đây, hoặc lấy lao động từ
các nước có nền văn hoá tương đồng với chúng tôi, ví dụ như Nga, Ucraina
và Belarut”. Dẫu sao thì Balan cũng cần nhanh chóng đưa ra hành động.
Để
phục vụ cho giải Cúp vô địch bóng dá châu Âu năm 2012, Balan cần xây
dựng thêm 600 dặm đường cao tốc, 5 sân bay, nhiều khách sạn và 3 sân
bóng đá mới, chưa kể đến việc phải nâng cấp nhiều sân vận động sẵn có.
II. Một số quy định của Luật lao động
( được cập nhật đến tháng 12-2007 )
Hợp đồng lao động :
Hợp
đồng lao động là một trong những cơ sở cho mối quan hệ lao động. Ngoài
ra, còn có các hình thức khác thể hiện cho quan hệ lao động đó là quyết
định thu nhận, quyết định bổ
nhiệm, bầu cử hoặc hợp đồng hợp tác xã. Một số trường hợp pháp luật cho
phép có sự khác biệt giữa Hợp đồng lao động và thực tế của mối quan hệ
lao động.
Hợp
đồng lao động gồm một số dữ liệu sau : Các bên tham gia hợp đồng, loại
hợp đồng, ngày tháng ký kết hợp đồng, điều kiện làm việc và điều kiện về
tiền lương, tiền công; về chi tiết có thêm các điểm sau : loại công
việc, địa điểm làm việc, các chi tiết cấu thành tiền lương, tiền công và
các quy định pháp lý về lĩnh vực này; thời giờ làm việc và thời điểm
bắt đầu nhận việc.
Việc thay đổi hợp đồng lao động phải làm thành văn bản, bằng cách là hai bên cùng thống nhất hoặc người sử dụng lao động ra thông báo những điểm cần thay đổi.
Trường
hợp cả hai bên đều nhất trí, có thể thay đổi những nội dung đã được quy
định trong hợp đồng lao động sau : công việc đã thoả thuận, nơi làm
việc, tiền lương, tiền công hoặc thời giờ làm việc.
Trường
hợp người sử dụng lao động đơn phương thay đổi bằng cách thông báo bằng
văn bản cho người lao động những điều kiện hợp đồng mới, nếu người lao
động không nhất trí với các điều kiện hợp đồng lao động đó, thì hợp đồng
sẽ bị giải thể sau thời gian quy định về giải thể hợp đồng.
Kết thúc hợp đồng lao động
Việc
kết thúc một quan hệ lao động thông qua việc chấm dứt hoặc hết hạn hợp
đồng lao động. Mỗi bên tham gia hợp đồng có thể chấm dứt hợp đồng sau
khi tuân thủ thời gian quy định về chấm dứt hợp đồng, chấm dứt tức thời
không cần tuân thủ thời gian quy định về chấm dứt hợp đồng hoặc hai bên
tự thoả thuận. Hợp đồng lao động có thời hạn được chấm dứt sau khi đã
hết thời gian thoả thuận, hoặc đã hoàn thành công việc mà hai bên đã ký
kết.
Nếu
chủ doanh nghiệp muốn chấm dứt các hợp đồng lao động vô thời hạn, phải
thông báo trước bằng văn bản cho tổ chức công đoàn đại diện cho người
lao động về ý định và lý do muốn chấm dứt hợp đồng vô thời hạn; cũng như
thông báo bằng văn bản cho người lao động về ý định và lý do muốn chấm
dứt hợp đồng và giải thích rõ việc họ có quyền kiện ra toà lao động.
Thời
hạn báo trước việc chấm dứt hợp đồng lao động vô thời hạn phụ thuộc vào
thâm niên làm việc của người lao động, có 3 mức thời hạn là 2 tuần lễ, 1
tháng và 3 tháng. Thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng trong thời
gian thử việc là 3 ngày làm việc, 1 tuần hoặc 2 tuần. Thời hạn báo trước
khi chấm dứt hợp đồng có thời hạn trên 6 tháng là 2 tuần lễ. Hợp đồng
nhận người thay thế tạm thời cho người lao động vắng mặt có lý do được
chấm dứt sau 3 ngày thông báo.
Ở
Balan có quy định đặc biệt về việc chấm dứt quan hệ lao động mà nguyên
nhân không thuộc phía người lao động. Quy định này điều chỉnh việc giải
thể hợp đồng lao động đối với cá thể hoặc một nhóm người lao động làm
việc cho chủ doanh nghiệp có từ 20 lao động trở lên.
Trong
tuyên bố sa thải vô thời hạn ( buộc thôi việc ), chủ doanh nghiệp phải
thông báo rõ lý do và giải thích quyền của người lao động được kiện ra
toà lao động. Buộc thôi việc được thực hiện khi người lao động vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ của mình. Ngoài ra, chủ doanh nghiệp cũng có quyền
cho thôi việc người lao động do bệnh tật, ốm đau mà mất khả năng lao
động dài hạn. Người lao động cũng có quyền xin thôi việc, nếu phát hiện
thấy công việc do mình thực hiện gây ảnh hưởng không lợi đến sức khoẻ và chủ doanh nghiệp không có việc làm khác để bố trí.
Theo
quy định của Bộ Luật lao động, thì quan hệ lao động đương nhiên được
chấm dứt trong một số trường hợp, ví dụ như người lao động hoặc người sử
dụng lao động từ trần.
Thời giờ làm việc
Tại Balan thời giờ làm việc không được vượt quá 8 giờ/ ngày; 40 giờ/ tuần và 5 ngày một
tuần. Tuy vậy không nhất thiết ngày nào, tuần nào cũng phải tuân thủ
một cách cứng nhắc thời giờ làm việc trên, mà cứ sau thời hạn là 4 tháng
phải tính tổng lại thời gian làm việc và điều chỉnh cho phù hợp với quy
định trên.
Ở
một số lĩnh vực, thời giờ làm việc hàng ngày có thể được kéo dài thêm.
Thời giờ làm việc trong tuần cộng giờ làm thêm không được vượt quá 48
giờ, tính bình quân sau thời hạn là 4 tháng.
Nguời lao động phải được đảm bảo nghỉ ngơi liên tục 11 giờ hàng ngày, 35 giờ hàng tuần.
Làm
việc vào ngày nghỉ cuối tuần và ngày lễ được Bộ Luật lao động cho phép,
ví dụ như làm ca, làm việc trong lĩnh vực giao thông vận tải, làm việc
vì mục tiêu công ích, phục vụ cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày của nhân
dân.
Nguời
lao động làm việc vào ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ được người sử dụng
lao động bố trí ngày nghỉ thay thế. Người lao động luôn phải làm việc
ngoài giờ quy định thông thường như vậy, thì tối thiểu cứ 4 tuần có
quyền yêu cầu được nghỉ một ngày Chủ nhật.
Làm
việc ca đêm được tính 8 tiếng, vào thời điểm giữa 21 và 7 giờ sáng hôm
sau. Người lao động làm việc ca đêm, mỗi giờ đều được được tính phụ cấp.
Làm
thêm giờ là những công việc được thực hiện ngoài giờ quy định bắt buộc
đối với người lao động, kể cả những công việc vượt quá thời gian làm
thêm hàng ngày, ví dụ như các trường hợp cấp cứu nhằm bảo vệ tính mạng
con người hoặc sức khoẻ cộng đồng, bảo vệ tài sản hoặc môi trường, khắc
phục các sự cố hoặc đáp ứng yêu cầu đặc biệt của người sử dụng lao động.
Số
giờ làm thêm của mỗi người lao động để đáp ứng nhu cầu đặc biệt của
người sử dụng lao động không được vượt quá 150 giờ trong mỗi năm, tính
theo lịch.
Giờ làm thêm được trả phụ cấp hoặc bố trí thời gian nghỉ bù.
Tiền lương, tiền công
Cơ
sở và phương thức xác định lương tối thiểu được quy định tại Luật ngày
10-10-2002 về Lương tối thiểu ( Luật số 200, khoản 1679, có bổ sung,
thay đổi ). Mức lương tối thiểu hàng năm được quy định theo kết quả
thương lượng của Uỷ ban ba Bên về các vấn đề kinh tế-xã hội. Tới thời
điểm 15-9 mỗi năm, mức lương tối thiểu của năm sau được xác định và công
bố. Từ 01-01-2007 mức lương tối thiểu được quy định là 936 Zloty ( tổng
lương ). Sau khi trừ khoản đóng bảo hiểm xã hội, khoản thuế thu nhập và
bảo hiểm ốm đau, còn lại khoản thu nhập ròng là 675 Zloty. Mức lương
tối thiểu trên được quy định đối với người làm đủ thời gian, những người
làm theo chế độ không đủ thời gian, thì mức lương tối thiểu giảm đi
theo tỷ lệ tương ứng.
Mức
lương tối thiểu được dùng làm cơ sở để tính toán tất cả các khoản quyền
lợi, trừ phần làm thêm, thưởng thâm niên công tác và khoản trợ cấp thời
gian quá độ hưu trí. Người sử dụng lao động có thể quy định mức trả
công cho người lao động mới làm việc năm đầu tiên thấp hơn, nhưng không
được thấp hơn 80% mức lương tối thiểu đã quy định.
Phương
thức trả tiền công, tiền lương của mỗi chủ doanh nghiệp rất khác nhau.
Điều kiện để trả công, trả lương và các khoản chi trả khác được quy định
bởi thoả ước lao động tập thể ngành, hoặc của từng doanh nghiệp ( đối
với các doanh nghiệp có tổ chức công đoàn ), bởi Quy chế trả lương ( đối
với doanh nghiệp có ít nhất 20 lao động và không có thoả ước lao động
tập thể ) hoặc bởi quy định tại từng hợp đồng lao động.
Người
sử dụng có nghĩa vụ lập cho mỗi người lao động một phiếu tính ( bảng kê
)lương, trong đó ghi rõ các phần tính toán về tiền công, tiền lương
được trả. Khi có yêu cầu, người lao động được quyền kiểm tra phiếu tính
lương của mình.
Việc
trả công được thực hiện bằng tiền. Việc trả công một phần bằng hình
thức khác ngoài tiền chỉ được phép, nếu điều đó được quy định tại văn
bản pháp luật về lao động hoặc trong thoả ước lao động tập thể. Việc trả
tiền lương được thực hiện mỗi tháng tối thiểu một lần, vào một thời
điểm nhất định được thoả thuận từ trước, nhưng không được muộn hơn
khoảng thời gian 10 ngày đầu của tháng sau đó ( tính theo lịch ). Việc
trả lương cũng có thể thực hiện bằng hình thức không trực tiếp bằng tiền
mặt, ví dụ như chuyển vào tài khoản của người lao động tại ngân hàng,
với điều kiện là người lao động đã có đơn đề nghị từ trước hoặc được quy
định trong thoả ước lao động tập thể.