Giới thiệu thị trường lao động Balan (phần I) 31/10/2013 22:17 Balan nằm trên lãnh thổ Đông Âu, biên giới phía Đông của nước này đồng thời là biên giới ngoài của Liên minh châu Âu, tiếp giáp với Ucraina và Belarut. 38 triệu cư dân Balan sinh sống trên diện tích 312700 km2, dân số giảm dần hàng năm. Về hành chính, Balan có 16 tỉnh với những đặc điểm khá khác biệt nhau và dưới đó là 379 huyện.

Giới thiệu thị trường lao động Balan (phần I)

 

I. Tóm tắt tình hình thị trường lao động

 

Balan nằm trên lãnh thổ Đông Âu, biên giới phía Đông của nước này đồng thời là biên giới ngoài của Liên minh châu Âu, tiếp giáp với Ucraina và Belarut. 38 triệu cư dân Balan sinh sống trên diện tích 312700 km2, dân số giảm dần hàng năm. Về hành chính, Balan có 16 tỉnh với những đặc điểm khá khác biệt nhau và dưới đó là 379 huyện.

Nguyên nhân chính của việc thay đổi không có lợi về cơ cấu dân số đó là tỷ lệ sinh thấp và sự chênh lệch về cán cân di cư lao động. Thực ra năm 2006, năm đầu tiên sau 5 năm, có tỷ lệ sinh cao hơn , tuy nhiên bộ phận dân cư chưa đến tuổi lao động vẫn ngày càng giảm đi và theo giới quan sát thì quá trình già hoá trong dân cư vẫn tiếp diễn. Hậu quả là, số người có nguồn sinh sống thông qua việc làm giảm đi. Xã hội với dân số già làm nảy sinh bất cập là tỷ lệ ngưòi đi làm và tỷ lệ có việc làm cao nhất rơi vào nhóm người ở lứa tuổi từ 35 đến 39 và với các nhóm người cao tuổi hơn thì cả hai tiêu chí trên đều giảm đi.

Sự thay đổi sâu sắc trên thị trường lao động Balan làm cho tình hình hiện tại về việc làm và tỷ lệ người đi làm khác hẳn với tình hình tại các nước EU còn lại. Số người có việc làm ở Balan chỉ chiếm 50% dân số có độ tuổi từ 15 trở lên. Mức độ thụ động cao về việc làm tại Balan là hệ quả của việc lao động trẻ bắt đầu cuộc sống nghề nghiệp càng ngày càng muộn hơn, mặt khác là do việc tăng nhanh số người đến tuổi về hưu hoặc hưỏng chế độ hưu non.

Năm 2006, số người có việc làm ở Balan tiếp tục tăng lên và các doanh nghiệp tạo ra nhiều chỗ làm hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp vẫn tiếp tục cao và tạo thành một trong những vấn đề nổi cộm nhất của thị trường lao động Balan.

Năm 2003, năm đầu tiên sau 5 năm, số người đăng ký thất nghiệp đã giảm đi. Đến cuối năm 2006, các Sở lao động địa phương thống kê được con số  2,3 triệu người đăng ký tìm việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp cuối 2006 là 14,9 % và thấp hơn trên 5% so với năm 2003.

Kinh tế phát triển với tốc độ cao gia tăng các thay đổi có lợi cho thị trường lao động, tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) năm 2006 đạt mức độ cao nhất so với 9 năm trước đó. Trước tiên, nó làm sống động lại hoạt động đầu tư. Trong các yếu tố góp phần vào việc cải thiện tình hình thị trường lao động, trước tiên phải nhấn đến là : Tăng chi phí cho các chương trình thị trường lao động tích cực; tăng cầu lao động; ngày càng có nhiều người thất nghiệp quan tâm đến tự tạo việc làm; tận dụng nguồn kinh phí từ quỹ tài trợ của EU; cải thiện chất lượng nguồn lao động, do ngày càng có nhiều người tôt nghiệp các trường đại học.

Năm 2006, số chủ doanh nghiệp và những người tự tạo việc làm trong độ tuổi từ 15 trở lên là 2,9 triệu người ( bằng 19,9 % người trong độ tuổi lao động ), trong số này có hơn một nửa hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp, săn bắt thuỷ hải sản và lâm nghiệp. Số chủ doanh nghiệp còn lại tập trung chủ yếu vào các ngành thương nghiệp và sửa chữa, sản xuất công nghiệp và xây dựng.

Trong số chỗ làm việc thông báo còn trống năm 2006, có đến gần một nửa cần thợ phụ việc và công nhân trong các ngành sản xuất thủ công và các nghề nghiệp tương tự. Nhu cầu giảm đối với lao động kỹ thuật trong các ngành nông, lâm,ngư nghiệp. Những nghề cần nhiều lao động, nhưng đồng thời cũng có nhiều người thất nghiệp nhất, đó là các nghề nhân viên bán hàng, thợ xây và quản lý nhà cửa.

Theo tin tức thu thập được từ trên mạng Internet ( tháng 11-2007 ), hiện Balan rất cần lao động nhập cư để xây dựng, nâng cấp hệ thống sân vận động phục vụ cho EURO 2012. Cùng với Ucraina, Balan đã được chọn là nước chủ nhà của EURO 2012. Do gia nhập EU từ năm 2004, hàng nghìn lao động Balan đã đi  tìm kiếm việc làm ở các nước Tây Âu, gây ra tình trạng khó khăn trong việc tìm đủ nguồn lao động phục vụ cho việc xây dựng hệ thống sân vận động cần thiết cho EURO 2012. Balan quyết định tìm nguồn lao động ở nước ngoài, gồm các nghề thợ xây, lợp mái, thợ điều hành cần cẩu, thợ lái máy xúc và một số ngành nghề khác. Balan đang xem xét nghiêm túc việc nhận lao động châu Á để có thể khởi công các công trình.

Bộ trưởng lao động Balan, bà Anna Kalata, đã có chuyến công du đến New Dehli để tìm kiếm nguồn lao động. Bà phát  biêủ  với  người  dân Ấn độ “để phục vụ cho EURO 2012 đang có tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động trong ngành xây dựng, chúng tôi cần các bạn”. Thêm vào đó, bà cho biết nền kinh tế của đất nước tăng trưởng 7% càng làm cho vấn đề nghiêm trọng thêm.

Tuy nhiên, một số thành viên trong Chính phủ Balan cũng bày tỏ sự lo lắng trong việc nhập cư lao động từ các nước ngoài khối EU, họ cho rằng yếu tố an ninh cũng cần được đặt ra khi tuyển thêm lao động nhập cư.

Một tổ công tác đặc biệt đã được thành lập dưới sự chủ trì của Thủ tướng Jaroslaw Kaczynski, gồm đại diện các Bộ Ngoại giao, Lao động, Nội vụ và An ninh , đang soạn thảo một kế hoạch hành động nhằm mở cửa thị trường lao động. Chỉ có một cơ quan như vậy mới đưa ra được một nghiên cứu, phân tích đầy đủ từ quan điểm về an ninh, vì trên thực tế đã có nước thu hút nhiều lao động nhập cư về các công trình ở nông thôn, nhưng cuối cùng nhiều lao động cũng dồn về các đô thị để hình thành các băng nhóm tội phạm.

Balan cũng đang xem xét việc tuyển chọn lao động từ vùng viễn đông. Một quan chức nói “ chúng tôi cần phải đưa ra quyết định, hoặc là tuyển lao động từ châu Á, những lao động này nhìn Balan là một nơi đến đầy hấp dẫn và thường có nhiều người muốn định cư luôn tại đây, hoặc lấy lao động từ các nước có nền văn hoá tương đồng với chúng tôi, ví dụ như Nga, Ucraina và Belarut”. Dẫu sao thì Balan cũng cần nhanh chóng đưa ra hành động.

Để phục vụ cho giải Cúp vô địch bóng dá châu Âu năm 2012, Balan cần xây dựng thêm 600 dặm đường cao tốc, 5 sân bay, nhiều khách sạn và 3 sân bóng đá mới, chưa kể đến việc phải nâng cấp nhiều sân vận động sẵn có.

 

II. Một số quy định của Luật lao động

( được cập nhật đến  tháng 12-2007 )

Hợp đồng lao động :

Hợp đồng lao động là một trong những cơ sở cho mối quan hệ lao động. Ngoài ra, còn có các hình thức khác thể hiện cho quan hệ lao động đó là quyết định thu nhận,  quyết định bổ nhiệm, bầu cử hoặc hợp đồng hợp tác xã. Một số trường hợp pháp luật cho phép có sự khác biệt giữa Hợp đồng lao động và thực tế của mối quan hệ lao động.

Hợp đồng lao động gồm một số dữ liệu sau : Các bên tham gia hợp đồng, loại hợp đồng, ngày tháng ký kết hợp đồng, điều kiện làm việc và điều kiện về tiền lương, tiền công; về chi tiết có thêm các điểm sau : loại công việc, địa điểm làm việc, các chi tiết cấu thành tiền lương, tiền công và các quy định pháp lý về lĩnh vực này; thời giờ làm việc và thời điểm bắt đầu nhận việc.

Việc thay đổi hợp đồng lao động phải làm thành văn bản, bằng cách là hai bên cùng thống nhất  hoặc người sử dụng lao động ra thông báo những điểm cần thay đổi.

Trường hợp cả hai bên đều nhất trí, có thể thay đổi những nội dung đã được quy định trong hợp đồng lao động sau : công việc đã thoả thuận, nơi làm việc, tiền lương, tiền công hoặc thời giờ làm việc.

 

Trường hợp người sử dụng lao động đơn phương thay đổi bằng cách thông báo bằng văn bản cho người lao động những điều kiện hợp đồng mới, nếu người lao động không nhất trí với các điều kiện hợp đồng lao động đó, thì hợp đồng sẽ bị giải thể sau thời gian quy định về giải thể hợp đồng.

 

 

Kết thúc hợp đồng lao động

Việc kết thúc một quan hệ lao động thông qua việc chấm dứt hoặc hết hạn hợp đồng lao động. Mỗi bên tham gia hợp đồng có thể chấm dứt hợp đồng sau khi tuân thủ thời gian quy định về chấm dứt hợp đồng, chấm dứt tức thời không cần tuân thủ thời gian quy định về chấm dứt hợp đồng hoặc hai bên tự thoả thuận. Hợp đồng lao động có thời hạn được chấm dứt sau khi đã hết thời gian thoả thuận, hoặc đã hoàn thành công việc mà hai bên đã ký kết.

Nếu chủ doanh nghiệp muốn chấm dứt các hợp đồng lao động vô thời hạn, phải thông báo trước bằng văn bản cho tổ chức công đoàn đại diện cho người lao động về ý định và lý do muốn chấm dứt hợp đồng vô thời hạn; cũng như thông báo bằng văn bản cho người lao động về ý định và lý do muốn chấm dứt hợp đồng và giải thích rõ việc  họ có quyền kiện ra toà lao động.

Thời hạn báo trước việc chấm dứt hợp đồng lao động vô thời hạn phụ thuộc vào thâm niên làm việc của người lao động, có 3 mức thời hạn là 2 tuần lễ, 1 tháng và 3 tháng. Thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng trong thời gian thử việc là 3 ngày làm việc, 1 tuần hoặc 2 tuần. Thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng có thời hạn trên 6 tháng là 2 tuần lễ. Hợp đồng nhận người thay thế tạm thời cho người lao động vắng mặt có lý do được chấm dứt sau 3 ngày thông báo.

Ở Balan có quy định đặc biệt về việc chấm dứt quan hệ lao động mà nguyên nhân không thuộc phía người lao động. Quy định này điều chỉnh việc giải thể hợp đồng lao động đối với cá thể hoặc một nhóm người lao động làm việc cho chủ doanh nghiệp có từ 20 lao động trở lên.

Trong tuyên bố sa thải vô thời hạn ( buộc thôi việc ), chủ doanh nghiệp phải thông báo rõ lý do và giải thích quyền của người lao động được kiện ra toà lao động. Buộc thôi việc được thực hiện khi người lao động vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình. Ngoài ra, chủ doanh nghiệp cũng có quyền cho thôi việc người lao động do bệnh tật, ốm đau mà mất khả năng lao động dài hạn. Người lao động cũng có quyền xin thôi việc, nếu phát hiện thấy công việc do mình thực hiện gây ảnh hưởng không  lợi đến sức khoẻ và chủ doanh nghiệp không có việc làm khác để bố trí.

Theo quy định của Bộ Luật lao động, thì quan hệ lao động đương nhiên được chấm dứt trong một số trường hợp, ví dụ như người lao động hoặc người sử dụng lao động từ trần.

 

Thời giờ làm việc

 

Tại Balan thời giờ làm việc không được vượt quá 8 giờ/ ngày; 40 giờ/ tuần và 5 ngày  một tuần. Tuy vậy không nhất thiết ngày nào, tuần nào cũng phải tuân thủ một cách cứng nhắc thời giờ làm việc trên, mà cứ sau thời hạn là 4 tháng phải tính tổng lại thời gian làm việc và điều chỉnh cho phù hợp với quy định trên.

Ở một số lĩnh vực, thời giờ làm việc hàng ngày có thể được kéo dài thêm. Thời giờ làm việc trong tuần cộng giờ làm thêm không được vượt quá 48 giờ, tính bình quân sau thời hạn là 4 tháng.

Nguời lao động phải được đảm bảo nghỉ ngơi liên tục 11 giờ hàng ngày, 35 giờ hàng tuần.

Làm việc vào ngày nghỉ cuối tuần và ngày lễ được Bộ Luật lao động cho phép, ví dụ như làm ca, làm việc trong lĩnh vực giao thông vận tải, làm việc vì mục tiêu công ích, phục vụ cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày của nhân dân.

Nguời lao động làm việc vào ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ được người sử dụng lao động bố trí ngày nghỉ thay thế. Người lao động luôn phải làm việc ngoài giờ quy định thông thường như vậy, thì tối thiểu cứ 4 tuần có quyền yêu cầu được nghỉ một ngày Chủ nhật.

Làm việc ca đêm được tính 8 tiếng, vào thời điểm giữa 21 và 7 giờ sáng hôm sau. Người lao động làm việc ca đêm, mỗi giờ đều được được tính phụ cấp.

Làm thêm giờ là những công việc được thực hiện ngoài giờ quy định bắt buộc đối với người lao động, kể cả những công việc vượt quá thời gian làm thêm hàng ngày, ví dụ như các trường hợp cấp cứu nhằm bảo vệ tính mạng con người hoặc sức khoẻ cộng đồng, bảo vệ tài sản hoặc môi trường, khắc phục các sự cố hoặc đáp ứng yêu cầu đặc biệt của người sử dụng lao động.

Số giờ làm thêm của mỗi người lao động để đáp ứng nhu cầu đặc biệt của người sử dụng lao động không được vượt quá 150 giờ trong mỗi năm, tính theo lịch.

Giờ làm thêm được trả phụ cấp hoặc bố trí thời gian nghỉ bù.

 

Tiền lương, tiền công

 

Cơ sở và phương thức xác định lương tối thiểu được quy định tại Luật ngày 10-10-2002 về Lương tối thiểu ( Luật số 200, khoản 1679, có bổ sung, thay đổi ). Mức lương tối thiểu hàng năm được quy định theo kết quả thương lượng của Uỷ ban ba Bên về các vấn đề kinh tế-xã hội. Tới thời điểm 15-9 mỗi năm, mức lương tối thiểu của năm sau được xác định và công bố. Từ 01-01-2007 mức lương tối thiểu được quy định là 936 Zloty ( tổng lương ). Sau khi trừ khoản đóng bảo hiểm xã hội, khoản thuế thu nhập và bảo hiểm ốm đau, còn lại khoản thu nhập ròng là 675 Zloty. Mức lương tối thiểu trên được quy định đối với người làm đủ thời gian, những người làm theo chế độ không đủ thời gian, thì mức lương tối thiểu giảm đi theo tỷ lệ tương ứng.

Mức lương tối thiểu được dùng làm cơ sở để tính toán tất cả các khoản quyền lợi, trừ phần làm thêm, thưởng thâm niên công tác và khoản trợ cấp thời gian quá độ hưu trí. Người sử dụng lao động có thể quy định mức trả công cho người lao động mới làm việc năm đầu tiên thấp hơn, nhưng không được thấp hơn 80% mức lương tối thiểu đã quy định.

Phương thức trả tiền công, tiền lương của mỗi chủ doanh nghiệp rất khác nhau. Điều kiện để trả công, trả lương và các khoản chi trả khác được quy định bởi thoả ước lao động tập thể ngành, hoặc của từng doanh nghiệp ( đối với các doanh nghiệp có tổ chức công đoàn ), bởi Quy chế trả lương ( đối với doanh nghiệp có ít nhất 20 lao động và không có thoả ước lao động tập thể ) hoặc bởi quy định tại từng hợp đồng lao động.

Người sử dụng có nghĩa vụ lập cho mỗi người lao động một phiếu tính ( bảng kê )lương, trong đó ghi rõ các phần tính toán về tiền công, tiền lương được trả. Khi có yêu cầu, người lao động được quyền kiểm tra phiếu tính lương của mình.

Việc trả công được thực hiện bằng tiền. Việc trả công một phần bằng hình thức khác ngoài tiền chỉ được phép, nếu điều đó được quy định tại văn bản pháp luật về lao động hoặc trong thoả ước lao động tập thể. Việc trả tiền lương được thực hiện mỗi tháng tối thiểu một lần, vào một thời điểm nhất định được thoả thuận từ trước, nhưng không được muộn hơn khoảng thời gian 10 ngày đầu của tháng sau đó ( tính theo lịch ). Việc trả lương cũng có thể thực hiện bằng hình thức không trực tiếp bằng tiền mặt, ví dụ như chuyển vào tài khoản của người lao động tại ngân hàng, với điều kiện là người lao động đã có đơn đề nghị từ trước hoặc được quy định trong thoả ước lao động tập thể.